Hoa có rất nhiều loài, và nhiều thứ hương, sắc. Gặp ngày Tết hoa càng quý-giá hơn, bán được đắt lên gấp bội. Vì có những nhà quanh năm không chơi hoa, không biết đến hoa là gì, như một sa-mạc không biết đến bóng dừa, mà gặp dịp tết nhất, cũng chuốc mua được ít bông tươi-thắm để trang-hoàng trong phòng khách hoặc trên bàn thờ.
Cuộc đời không khô lạnh quá,
một phần nhờ về mầu-sắc. Cho nên ở đâu có hoa và ánh-sáng, là có sự vui sống
rồi-rào. Thơ Đường ca-tụng về hoa, có câu rằng: “Cứ vô-tình thế mà cảm nổi
người, nếu lại biết nói thì có thể nghiêng được nước.” Vốn có bản-chất
linh-diệu ấy, nên hoa thường được các thi-nhân bảo là có hồn. Và mỗi khi ta nhớ
lại một câu thơ nào có nhắc đến hoa, là trong trí lại hiển-hiện ra một hình
người đẹp, mà mầu hồng của má của môi, và của ngực đều làm bằng tất cả hoa!
Nên hoa lại ngon nữa! Cổ nhân
thường nuốt từng nắm hoa mai, mà bảo: “để cho hàn-hương thấm rửa vào trong
phế-phủ”. Và kể riêng một thứ cúc đã có công dụng trong việc ẩm-thực nhiều rồi.
Song ở đây, là những giờ trà dư tửu hậu. Thở hơi ấm của tân-xuân, và hưởng cái
nhàn-nhã của vài ngày Tết, người ta có thể tỉ-mỉ thăm ngắm đến từng cánh
tinh-vi.
Hoa lan bao nhiêu thức, ai sành
chơi lắm mới nhận hết được đủ các giống. Nào Trần-mộng hoa đỏ, Mặc-lan hoa đen,
Động-lan hoa phớt tím, Hội-điểm hoa trắng có chấm hồng, Hạc-đính hoa như đầu
hạc, còn thi Đại-kiều, Tiểu-kiều,
Bạch-ngọc, Kiến-lan, Phong-lan, Hoàng-lan, vân vân… thứ giồng trong chậu, thứ
để vào lẵng treo quanh giàn, mỗi hạng một vẻ và một mùi hương… Nhưng tựu trung,
thường quý vì đắt tiền, và chỉ các cụ già hay chơi, một cớ là mất công lau vuốt
rất tỉ-mỉ. Lan có giáng quý-phái và cổ-điển, như những người tóc bạc phong-lưu.
Mùi hương thường kín đáo như một đời ẩn-dật.
Những cánh hải-đường đỏ thắm,
nụ chum-chúm từng núm ngon lành, và hoa trổ lả-lơi. Hãy nhẹ bàn tay, đừng
dập-vùi thái quá, đừng gió mưa thái quá! Đây là một người gái đẹp không tiếc gì
ta, đây là những giọt máu hồng; đêm tàn, rụng theo vài cánh máu. Bước chân xéo
qua, quên đi…
Hoa cúc mang nhiều tên như lan:
Bạch-hạc, Kim-bàn, Đại-đóa, Bạch-my đỏ có, tím có; thứ thì cánh bằng như xén,
ấy là Cam-cúc; thứ thì nhỏ li-ti, ấy là Kim-cúc; và thứ cánh xoăn lại, thứ cánh
thẳng đều, dầy hoặc thưa… Hương thơm hắc, nhưng ý-nhị và kín đáo, như những
thiếu-phụ khéo tề-gia nội-trợ, trang-điểm sơ-sài, mà rất giữ bền tình yêu như
hoa rất lâu tàn-tạ.
Phù-dung chỉ có hai loại: một
là Bát-diện, nhiều cánh và tươi mầu; một nữa là Tam-sắc, vì hoa nở ra thoạt
sáng sắc trắng, càng về trưa càng hồng gắt, và đến chiều nhạt dần đi mà rụng.
Vì hoa sống có một ngày, như kiếp phù-du, làm cho người ta nghĩ đến những sự
chóng-vánh, những sự kết-liễu một đời non yểu! Cánh hoa yếu-ớt, mong-manh như
tàn-lực mấp-máy trên đôi môi còn nồng hơi sữa một đứa trẻ ấu-thơ…
Những bông cẩm-chướng, cánh như
cắt bằng gấm, lụa, hoặc trắng như băng sương, vàng như nắng thu, hay là hồng
của buổi lê minh, và ngà-ngà của một thứ mây giáng… Người ta bảo đấy là một bầy
gái nhỏ khoe áo trước gió xuân!
Hoa dạ-hợp thì chờ đến nửa đêm,
kêu tách ra một tiếng, rồi bùng nở trong chớp mắt. Nở xong, rất chóng rụng.
Đừng bảo loài ấy tượng-trưng cho những cuộc xum vầy. Đấy là đời những chiếc
pháo nổ lên mà tan xác! Đấy là đời anh-hùng mà yểu mệnh!
Hồng thì đại-khái có hồng bạch,
hồng đơn, hồng quế, hồng nhung, vân vân… vừa trang-trọng, vừa kiều-diễm như một
nàng hoa-hậu kiêu-sa. Song cũng không giấu nổi cái buồn của bóng chiều.
Rồi đến thủy-tiên, cốt trắng
như băng thanh ngọc khiết, lá xanh là những giải áo, và nhụy là những chiếc
khăn vàng. Cái huyền-ảo của toàn-thể trước khói-hương, nhắc lại sự tích nàng
Lý-phi-tiên bị dân làng mê-tín đem dâng cho Hà-Bá dưới sông Dương-tử; sau
Phi-tiên chết, hóa thành những củ nở hoa, người ta gọi là Thủy-tiên. Cũng còn
một tích khác nữa: có một nhà chia gia-tài, con lớn tranh hết phần em. Con út
tủi thân ra ngồi khóc ở bờ sông. Bỗng có ông lão tóc bạc hỏi duyên-cớ rồi cho
một thứ củ trắng bảo đem về trồng mà sinh-nhai, lại xưng tên là Thủy-tiên. Sau
củ đó nở hoa, lấy tên ông lão đặt cho. Nhằm dịp tết, thiên-hạ thấy hoa đẹp, đua
nhau mua bầy chơi. Rồi sau thành lệ.
Ngày tết, thịnh-hành nhất, còn
hoa mai và hoa đào, bán từng cành. Hoa mai đạm-bạc như một kẻ thanh-bần, song
cao-khiết, những nhánh khẳng-khiu nhắc đến những thân-hình gầy yếu vì phong
sương. Hoa đào cũng những cánh nhỏ như mai, song sắc đỏ thắm, và cũng có một sự
tích:
Tại thôn Nhuệ-cái thuộc địa
phận Hàng-châu, có gã Vương-sinh lấy vợ họ Đào rất đẹp. Vương yêu hoa thường
cùng vợ vào rừng núi tìm những hương-sắc kỳ lạ. Một lần, gặp tết Nguyên-đán,
hai người du xuân rồi nghỉ bước trên bờ suối, Vương chỉ cho vợ ngắm bóng nàng
soi xuống dưới nước, và chàng ước có một thứ hoa đẹp như nàng, mầu hồng tươi
như mầu áo đang mặc của nàng. Đào-thị mỉm cười, hứa đến lúc chết, thế nào cũng
hóa ra loài hoa đó, để làm đẹp lòng chồng.
Không ngờ lời hứa nhằm giờ
linh, nên ít lâu, Đào-thị mắc bệnh từ trần. Vương đem táng ở bờ suối. Về sau,
suốt bờ suối mọc đầy một thứ cây, vào khoảng tháng chạp thì nở hoa, quả-nhiên
mầu hồng như sắc áo cũ của Đào-thị. Vương nhớ lời vợ, ngắt mấy cành về cắm lên
bàn thờ và gọi tên là hoa đào. Mọi người trong thôn thấy hay cũng bắt chước.
Sau vì thôn đó sản ra giống hoa ấy, mới nhân thế mà đổi thành là Đào-hoa-thôn.
Câu chuyện hoa xuân tới đây là
hết. Những bó hoa sau mấy ngày tết, từ trên bình rơi xuống đống rác… Không ai
như các nhà thi-sĩ đọc trên cánh hoa những hình-ảnh xa vời, hay bóp nát ra vì
một hờn giận đâu đâu! Không, hoa chỉ đến cho người ta ngắm những mầu tươi, rồi
hoa lại đi… Hoa đi như một nàng ca-kỹ hát xong ở một đám tiệc vui, rượu đã cạn
hồ, tiếng cười đã hết…
THÂM TÂM
BÙI ĐẸP sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét