Ðã gần 7 thập niên, kể từ khi 4 bài thơ độc
đáo của TTKh được phổ biến trên 2 tạp chí Tiểu thuyết thứ bẩy và Phụ nữ thời
đàm ở Hà nội. Giới văn chương, báo chí cũng như những người yêu thích thơ văn
tiền chiến đã tốn khá nhiều bút mực, công lao để tìm hiểu về thân thế và con
người thật ngoài đời của bà, nhưng đến nay vẫn còn nhiều mù mờ ! Gần đây đã có
vài khám phá đáng mừng, dù vậy văn học sử vẫn còn cần thời gian để kiểm chứng
mức độ chính xác của nó .
Trong suốt thời gian
dài vừa qua, biết bao nhiêu những dữ kiện được thêu dệt rất lãng mạn liên quan
đến tác gỉa bởi những người yêu thơ của bà cũng như những nhà làm văn
nghệ...Vài người còn tưởng tượng hay đưa ra những chứng minh tự nhận mình là
người yêu của bà !.
Trong bài này, chúng
tôi thu gom một số tài liệu từ xưa đến nay viết về TTKh cũng như đề cập đến
nguyên nhân mà những bài thơ của bà đã được xuất hiện trên thi đàn. Ðây cũng
chỉ là công việc sắp xếp những tài liệu đó cho có thứ tự với hy vọng cung ứng
một vài kiến thức cho những người thích thơ văn tiền chiến và nhất là thơ của
TTKh mà thôi.
1.Sự xuất hiện
TTKh. trên thi đàn tiền chiến:
Vào khoảng giữ năm
1937, trên tạp chí ’’ Tiểu thuyết thứ bẩy ’’ xuất bản ở Hà Nội có đăng một
truyện ngắn ’’Hoa Ti-gôn ’’ của ký gỉa Thanh Châu. Ðây là một truyện khá bi
đát, trong đó mô tả truyện tình của một họa sĩ trẻ vừa ra trường tên Lê Chất.
Trong một lần đạp xe đi tìm phong cảnh để vẽ ở một làng quê ven Hà Nội, ngẫu
nhiên khi đi qua một căn biệt thự cổ Lê Chất nhìn thấy một cô gái rất đẹp, mặc
áo ngắn tay bằng lụa đang đứng trên chiếc ghế cao níu lấy một cành hoa ti gôn
mầu đỏ.
Sắc đẹp của người
thiếu nữ nổi trội lên giữa giàn hoa ti gôn đỏ đã làm cho người hoạ sĩ mẩn mê
đứng nhìn... Rồi từ hôm đó, ngày nào anh ta cũng tìm cách quanh quẩn gần căn
biệt thự để được nhìn cô gái và ngược lại cô gái cũng thấy anh ta. Nhưng chỉ
được vài lần, rồi không biết lý do gì người con gái không còn xuất hiện nữa.
Thời gian qua đi, mang
thành công và danh vọng đến cho người hoạ sĩ, nhưng anh ta vẫn không bao giờ
quên hình bóng người con gái đẹp dưới giàn hoa tigôn mầu đỏ mà anh ta đã gặp gỡ
ngày còn nghèo khổ xa xưa .
Rồi ngẫu nhiên, 9 năm
sau, trong lần đi tìm dề tài sáng tác ở miền Nam Trung Quốc, anh ta được mời
tham dự buổi dạ vũ trong toà lãnh sự Pháp tại Vân Nam . Lê Chất gặp lại cô con
gái ngày xưa, nhưng trong nhiều oái oăm, muộn màng. Chồng của cô gái là một
viên chức cao cấp của toà lãnh sự, người chồng mà cô ta không hề yêu thương .
Trong lần tái ngộ đó, họ khiêu vũ, tâm sự với nhau, và tiếp theo mối tình của
họ được tiếp nối trong vụng trộm . Ðến một lần, họ dự tính bỏ lại đằng sau tất
cả để tìm cách trốn đi Nhật sinh sống với nhau.
Nhưng đến giây phút
cuối, người thiếu phụ gửi cho chàng họa sĩ một lá thư, kèm một chùm hoa tigôn
mầu đỏ máu, nàng từ chối ra đi vì không đủ can đảm từ bỏ danh dự và tai tiếng
của gia đình cũng như sự khinh bỉ của gia đình chồng.
Buồn đau vì ý định
không thành, người họa sĩ vẫn ra đi Nhật bản một mình trước khi trở về Hà nội.
Rồi, ngẫu nhiên, bốn năm sau, anh ta nhận được lá thư từ người chồng của cô gái
báo tin nàng đã mất ! Lê Chất sang Vân Nam viếng mộ người xưa với một chùm dây
hoa tigôn, loại hoa kỉ niệm mối tình của họ. Cũng từ đó cho đến suốt cuộc đời,
cứ vào mua hoa tigôn nở, Lê Chất không bao giờ quên mua những chùm hoa tigôn để
trang hoàng trong phòng làm việc như để tưởng nhớ đến người yêu xa xưa vắn số
của mình .
Mấy ngày sau khi câu
truyện ngắn trữ tình đó xuất hiện trên báo, có một thiếu phụ khỏang 20 tuổi,
dáng dấp nhỏ bé, thùy mị, nét mặt u buồn mang đến toà báo, đưa tận tay người
chủ bút một phong thư dán kín. Trong đó có một bài thơ rất hay với đề tựa ’’Hai
sắc hoa tigôn’’ được ký tên tác gỉa là T.T.Kh.
Bài thơ não lòng, lột
tả được tất cả cái đau xót của người con gái đã phải xa người mình yêu, người
đã cùng mình gắn bó thề ước dưới giàn hoa tigôn để đi lấy chồng, người mà mình
không hề yêu:
Người
ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở
dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo
rằng: hoa dáng như tim vỡ
Anh
sợ tình ta cũng vỡ thôi !
Nỗi đau buồn đó đã
theo hết cuộc đời của nàng trong sự hững hờ của gia đình chồng vì biết nàng vẫn
còn tưởng nhớ đến tình nhân xa cũ :
Từ
đấy thu rồi thu lại thu
Lòng
tôi còn gía đến bao giờ
Chồng
tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người
ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Cái ray rứt, cái đau
khổ vì nghĩ mình là kẻ phụ bạc vẫn theo dầy vò người thiếu phụ, làm cho nàng sợ
những buổi chiều thu nhạt nắng, sợ bóng dáng ai kia vẫn còn nhớ đến chùm hoa kỷ
niệm đỏ tựa máu hồng :
Tôi
sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều
thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gío
về lạnh lẽo,chân mây vắng
Người
ấy sang sông đứng ngóng đò
Nếu
biết rằng tôi đã có chồng
Trời
ơi, người ấy có buồn không?
Có
thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa
trái tim phai, tựa máu hồng !
Khi bài thơ ‘’ Hai sắc
hoa tigôn ‘’ vừa cho lên mặt báo đã gây xôn xao trong giới yêu văn chương.
Nhiều nhà phê bình đã không ngần ngại cho rằng đây là một kiệt tác. Trong không
khí sôi động đó, toà báo lại nhận thêm được một bài thơ khác cùng tác gỉa, qua
đường bưu điện với đề tựa ‘’ Bài thơ thứ nhất ‘’. Bài thơ này cũng với những
câu thơ buồn đau đầy nước mắt, giải thích, mô tả kỹ lưỡng hơn về mối tình dang
dở của cặp tình nhân gặp nhau rồi yêu nhau và cuối cùng không biết vì lý do nào
đó người đàn ông rời xa, người đàn bà ở lại yêu kỷ niệm cho đến ngày lấy chồng
:
Ở
lại vườn Thanh có một mình
Tôi
yêu gío rụng lúc tàn canh
Yêu
trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu
bóng chim xa, nắng lướt mành
Và
một ngày kia tôi phải yêu
Cả
chồng tôi nữa , lúc đi theo
Những
cô áo đỏ sang nhà khác !
Người con gái đã tưởng
rằng, cuộc tình dang dở của mình đã đi vào dĩ vãng. Thời gian và ngăn cách cũng
làm đổi thay nơi cố nhân để giúp nàng quên được mối tình xa xưa, lỡ dở đó.
Nhưng oái oăm thay, người xưa vẫn còn nặng lòng, tưởng nhớ đến nàng, đến chòm
hoa tigôn mầu đỏ hình tim kỷ niệm :
Ðang
lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng
ai mang lại cánh hoa tim
Cho
tôi ép nốt dòng dư lệ
Rỏ
xuống thành thơ khóc chút duyên !
Ðẹp
gì một mảnh lòng tan vỡ
Ðã
bọc hoa tàn dấu xác xơ !
Tóc
úa giết lần đời thiếu phụ
Thì
ai trông ngóng chẳng nên chờ.
Khi bài thơ thứ nhất
được đưa lên báo, có người thắc mắc tại sao bài thơ Hai sắc hoa Tigôn lại được
gửi đăng báo trước bài Thơ thứ nhất ?
Người ta cho rằng, tác
gỉa đã làm bài Thơ thứ nhất, than khóc cho mối tình lỡ dở của mình từ lâu nhưng
vì một lý do nào đó không gửi đăng báo. Nhưng sau đó, ngẫu nhiên đọc câu truyện
ngắn Hoa Tigôn cuả ký gỉa Thanh Châu, cảm động với câu truyện và nhất là tìm
thấy nhiều dữ kiện tương đồng với mối tình ngang trái của chính mình, tác gỉa
đã làm bài thơ Hai sắc hoa Tigôn rồi gửi ngay cho toà báo. Chính vì thế bài thơ
thứ nhất được phổ biến sau bài Hai sắc hoa tigôn:
Buồn
qúa hôm qua xem tiểu thuyết
Thấy
ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng
hồng tựa trái tim tan vỡ
Và
đỏ như mầu máu thắm pha
Cũng ở tuổi ngây ngô
lúc mới gặp nhau thì làm sao hiểu được ý nghĩa của những tiếng thở dài của
người yêu? !
Thủa
đó nào tôi đã hiểu gì
Cánh
hoa tan tác của sinh ly
Cho
nên cười đáp mầu hoa trắng
Là
chút lòng trong chẳng biết suy !
Sau khi bài thơ thứ
nhất được đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bẩy, giới văn nghệ càng bàn tán nhiều
hơn nữa. Bao nhiêu những tưởng tưộng,thêu dệt với những tình tiết lâm ly về
hình dạng, thân thế và cả mối tình buồn đau lãng mạn của tác gỉa được đưa ra
báo chí.
Vẫn trong cái không
khí xao động, bàn tán lung tung vì 2 bài thơ vừa đăng báo đó, tạp chí ‘’Phụ nữ
thời đàm’’ ở Hà nội lại nhận được bài thơ ‘’ Ðan áo cho chồng ‘’ của cùng tác
gỉa qua bưu điện. Bài thơ này cũng vẫn với giọng điệu buồn đau, nhưng có vẻ
than van, oán trách thân phận mình nhiều hơn. Nàng mô tả như bị tù tội trong
cuộc sống với người chồng không yêu nhưng vẫn mong đợi bóng dáng người xưa :
Tháng
ngày miễn cưỡng em đan
Kéo
dài một chiếc áo len cho chồng
Như
con chim hót trong lồng
Tháng
ngày mong đợi ánh hồng năm nao !
Ngoài
trời mưa gío xôn xao
Ai
đem khóa chết chim vào lồng nghiêm ?
Ai
đem lễ giáo giam em ?
Sống
hờ trọn kiếp trong duyên trái đời...
Bài thơ đan áo cho
chồng vừa ra mắt thì toà báo Tiểu thuyết thứ bẩy lại qua đường bưu điện nhận
được bài thơ thứ tư với đề tựa : Bài thơ cuối cùng .
Ðúng như đề tựa của
nó, sau bài thơ này, làng thơ không bao giờ còn nhận được thêm bài nào nữa,
TTKh hoàn toàn biến mất trên thi đàn! Cũng từ đó trong lịch sử văn thơ tiền
chiến phải nhận lấy sự bí mật về một tác giả mà chỉ có vỏn vẹn 4 bài thơ nhưng
đã tạo được chỗ đứng rất vững trãi trong nền văn học VN.
Ý tứ của bài thơ cuối
cùng hơi khác 3 bài thơ trước, nó than van, mô tả nhiều hơn về nỗi xót xa của
mối tình dang dở nhưng lại đượm đầy giọng trách móc cố nhân, đã vì hư danh mà
rao bán bài thơ đan áo mà nàng đã tặng riêng cho chàng :
Chỉ
có ba người được đọc riêng,
Bài
thơ đan áo của chồng em
Bài
thơ đan áo nay rao bán
Cho
khắp người đời thóc mách xem ...
Nàng hờn dỗi :
Từ
đây, anh hãy bán thơ anh
Còn
để yên tôi vớI một mình
Những
cánh hoa lòng, hừ ! đã ghét
Thì
đem mà đổi lấy hư vinh !
Nhưng giận thế nào
được khi lòng nàng vẫn còn đầy rẫy nhớ thương? Bóng dáng người xưa vẫn luẩn
quẩn đâu đây trong tim và trí nhớ nàng ? :
Tôi
biết làm sao được hỡi trời
Giận
anh, không nỡ ! Nhớ không thôi!
Mưa
buồn, mưa hắt trong lòng ướt...
Sợ
qúa đi anh...Có một người !...
Bài thơ cuối cùng xuất
hiện vào giữa năm 1938, trong giới văn chương vẫn không giảm xút những lời bàn
tán, thêu dệt về thân thế và cuộc tình buồn bã của tác gỉa, đã thế nhiều nhà
báo, nhà thơ có tên tuổi đương thời đã đưa ra những chứng cớ để cố nhận người
thi sĩ tài năng đầy bí ẩn đó là người yêu của mình.
2. Những dữ kiện lên
quan đến thân thế của TTKh.
Như trên đã đề cập đến
cái độc đáo của bài thơ kèm theo ý tứ của một mối tình buồn bã, lãng mạn...
thêm vào đó sự bí mật về thân thế thi nhân càng làm cho người ta tò mò muốn
biết về tác gỉa. Ðến nay đã gần 70 năm rồi, người ta vẫn phải nhận lấy những
điều mù mờ về thân thế và cả những thêu dệt vô căn cứ về người nữ sĩ tài danh
đó ! Sau đây là một vài sự kiện đã gây ra những xáo động dư luận trong giới thơ
văn. Ðúng hay sai, tưởng tượng hay là một lối tìm nguồn thi hứng của những
người làm văn nghệ...Ðến nay vẫn chỉ là những dấu hỏi mù mờ mà thôi!
a.Dư luận với ký gỉa
Thanh Châu :
Như phần trên đã
viết, truyện ngắn Hoa Tigôn của Thanh Châu trên báo Tiểu thuyết thứ bẩy đã là
nguyên nhân xuất hiện những bài thơ diễm tình, lãng mạn bất tử của TTKh trong
làng thơ tiền chiến.
Nếu xét những diễn
tiến cũng như tâm trạng buồn đau của người con gái trong truyện ngắn Hoa Tigôn
và trong 4 bài thơ của TTKh, nhất là bài Hai sắc hoa Tigôn, người ta thấy nội
dung hai bài gần như giống hệt nhau. Cũng vẻ ngây thơ của người con gái thủa
ban đầu gặp gỡ người yêu, cũng bóng dáng người nghệ sĩ làm cho nàng nhớ mãi
không quên dưới giàn hoa Tigôn kỷ niệm :
Thủa
trước hồn tôi phơi phới qúa
Lòng
thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng
nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm
ái trao tôi một vết thương
hay :
Người
ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở
dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo
rằng : hoa giống như tim vỡ
Anh
sợ tình ta cũng vỡ thôi .
Rồi những câu thơ tả
người thiếu phụ luôn luôn tưởng nhớ đến cố nhân , phải miễn cưỡng kéo dài cuộc
sống nhàm chán bên người chồng luống tuổi mà mình không yêu... Tất cả những dữ
kiện đó đã lột tả gần như hòa hợp rất khắng khít với cốt truyện ngắn của Thanh
Châu.
Tôi
vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái
ân lạnh lẽo của chồng tôi
Mà
từng thu chết từng thu chết
Vẫn
dấu trong tim bóng một người
Chính vì vậy ngay khi
mấy bài thơ xuất hiện trên báo chí, ký gỉa Thanh Châu đã khẳng định với dư
luận, TTKh chính là người con gái trong căn biệt thự ở ngoại ô Hà nội, là người
yêu của ông.Sự xác định này đã quấy lên những xáo trộn nghì ngờ cũng có, tin
tưởng cũng có trong làng thơ văn lúc bấy giờ.
b. Dư luận với Nguyễn
Bính:
Có lẽ Nguyễn Bính cũng
bị chinh phục bởi những vần thơ trữ tình, lãng mạn pha cảm giác đau buồn vì
khắt khe của lễ giáo, danh dự gia đình của người thiếu phụ hoa Tigôn. Hình ảnh
đau xót, lạnh lùng của người đàn bà đã phải chịu đựng suốt cuộc đời với người
chồng mà nàng không yêu, nhưng vẫn giữ được tấm lòng son sắt, chung tình với cố
nhân làm cho ông cảm động. Nguyễn Bính cũng nhập cuộc với cái xôn xao của làng
thơ, ông cho rằng TTKh là ‘’ người tình vườn Thanh’’ xưa cũ của mình !
Theo thi sĩ thì ngày
ông còn trẻ, ở lứa tuổi còn thích giang hồ, đi Bắc, về Nam để tìm cảm hứng làm
thơ. Có lần gặp buổi trời mưa lớn, ông ghé vào căn nhà trọ một vùng quê ở Thanh
Hóa, căn nhà có một thửa vườn rất đẹp và ông gọi là vườn Thanh ( Thanh Hóa ).
Cũng nơi đây ông đã gặp gỡ và yêu si một cô gái quay tơ xinh đẹp. Nhưng vì biết
mình vẫn còn mang nặng kiếp giang hồ, thi sĩ đã không dám nghĩ đến việc nhân
duyên, để rồi lại ra đi theo tiếng gọi của sông nước, tìm thi hứng cho thơ văn.
Rồi nhiều năm sau đó
khi có dịp trở lại vườn Thanh, thi sĩ được người lão bộc kể cho nghe một thiên
tình hận ! Ngày nhà thơ bỏ ra đi đã làm lở dở mối tình của người thiếu nữ quay
tơ, sau đó nàng phải bước sang ngang với một người chồng gìa tuổI, không yêu :
Tơ
duyên đến thế thì thôi,
Thế
là uổng cả một đời tài hoa
Ðêm
đêm bên cạnh chồng già
Và
bên cạnh bóng người xa hiện về...
Với thời gian, thi sĩ
Nguyễn Bính tưởng rằng đã quên được mối tình hận năm xưa, nhưng khi đọc mấy bài
thơ của TTKh đã kéo ông lại với quá khứ ! Nhà thơ tìm thấy mối tình của TTKh mô
tả trong mấy bài thơ giống y hệt như mối tình vườn Thanh của mình. Nhất là
trong bài thơ thứ nhất tả cảnh cố nhân tiễn ông ra đi rồi trở về vườn Thanh để
sống với nỗI cô đơn trong gío lạnh :
Thổi
tan âm điệu du dương trước
Và
tiễn người đi bến cát xa
Ở
lại vườn Thanh có một mình
Tôi
yêu gío lạnh lúc tàn canh
Yêu
bóng chim xa, nắng lướt mành.
Với cái cảm xúc có
được từ hình ảnh đầy thi tứ, buồn thương đó, Nguyễn Bính đã làm một bài thơ khá
dài ‘’ Giòng Dư Lệ ‘’ ông đề tặng riêng cho TTKh, người mà ông chắc chắn là cô
gái quay tơ đã một lần thi sĩ gặp gỡ, yêu si. Trong bài thơ này ông mô tả tất
cả những diễn tiến của cuộc tao ngộ lần đầu gặp nhau cho đến lúc ông xót đau
than khóc khi đọc những bài thơ tâm sự của TTKh.
Tuổi
nàng năm ấy còn thơ
Còn
bao hứa hẹn đợi chờ một mai
Rồi
đây bao gío bụi đời
Tôi
quên sao được con người vườn Thanh.
Ðể rồi thi sĩ chẳng
ngại ngần gì xác quyết TTKh là người yêu vườn Thanh xa xưa của mình :
Chuyện
xưa hồ lãng quên rồi,
Bỗng
đâu xem được thơ người vườn Thanh
Bao
nhiêu oan khổ vì tình
Cớ
sao giống hệt chuyện mình ngày xưa?
Phải
chăng mình có nên ngờ
Rằng
người năm cũ bây giờ là đây ?
c.Dư luận với thi sĩ
Thâm Tâm:
Với thi sĩ Thâm Tâm (
Nguyễn tuấn Trình, 1917-1948) có những dữ kiện và chứng minh rất hấp dẫn nói
đến sự liên hệ tình cảm của ông với TTKh có vẻ như vững trãi hơn và đáng tin
tưởng hơn so với ký gỉa Thanh Châu và thi sĩ Nguyễn Bính. Tuy nhiên nếu suy nghĩ
kỹ lưỡng ngườI ta cũng không thể coi là hoàn toàn xác thực để cho vào văn học
mà không có những dấu chấm hỏi nghi ngờ được !
Dữ kiện đầu tiên từ
bút hiệu TTKh đã là một dấu tích thuận lợi cho nhà thi sĩ Thâm Tâm tuyên bố với
nhân gian là TTKh người yêu của mình vì đó là sự gán ghép hai tên Thâm Tâm và
Khánh , tên của cô gái, người yêu của ông mà thành.
Nhưng Phạm Thanh tác
gỉa cuốn Thi Nhân Việt Nam Hiện Ðại lại cho rằng, đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu
nhiên và tưởng tượng vu vơ của Thâm Tâm mà thôi. Thật ra TTKh chẳng phải là
người yêu của ông nào cả. Nữ sĩ chính là Trần Thị Khánh (TTKh ), một nữ sinh ở
phố Sinh Từ, Hà nội, cô ta yêu tha thiết một thanh niên, nhưng vì bị ép buộc
của gia đình phải lấy một người đàn ông khác nhiều tuổi hơn, tên là Nghiêm.. Ðơn
giản chỉ có thế mà thôi !
Dư luận lúc đó cũng
chẳng biết đúng sai ra sao vì sau khi ’’ Bài thơ cuối cùng’’’ được đăng báo vào
giữa năm 1938 , TTKh biệt tích trên thi đàn. Nhưng mãi đến năm 1940 nhà thơ
Thâm Tâm mới nhẩy vào để nhận là người yêu của nàng. Ông làm một bài thơ khá
dài với đề tựa là ‘’Trả lời của người yêu ‘’ dành tặng riêng cho TTKh, trong đó
ông đã gọi tên nữ sĩ là Khánh, một bài thơ rất hay, rất não nùng bằng những câu
thơ có tí phiền giận tác gỉa TTKh, người yêu của ông :
Khánh
ơi, còn hỏi gì anh
Ái
tình đã vỡ, ái tình lại nguyên
Em
về đan nốt tơ duyên
Vào
tà áo mới đừng tìm mối xưa
Bao
nhiêu hạt lệ còn thừa
Dành
ngày sau khóc những giờ vị vong !
Hay:
Giờ
hình như gió thổi nhiều
Những
loài hoa máu đã gieo nốt đời
Tâm
hồn nghệ sĩ nổi trôi
Sá
chi cái đẹp dưới trời mong manh
Sá
chi những chuyện tâm tình
Lòng
đau, đau chứa trong bình rượu cay !
Sau đó Thâm Tâm còn
viết hai bài thơ khác nữa tặng riêng cho TTKh, bài ‘‘Mầu máu Tigôn’’ và bài ‘’
Dang dở ‘’ , đây là những bài thơ rất hay và rất cảm động của Thâm Tâm trong
năm 1940.
Suốt mây mươi năm sau
đó nhiều người làm văn hoá vẫn cố tìm tòi thân thế thực của TTKh để xóa đi bóng
tối bí mật của người nử sĩ tài năng đó, nhưng những cố gắng đó cũng chẳng đến
đâu ! Mãi sau này tờ báo Nhân Dân ra ngày chủ nhật 23 tháng 7 năm 1989, ký gỉa
Hoàng Tiến đã đưa ra một dữ kiện khác, trong đó ông ta cùng với hai thi sĩ
đương thời là Trần Lê Văn và Tú Sót, cả ba người cho biết đã trực diện nghe nhà
thơ Lương Trúc (tên thật là Phạm Quang Hoà, thuộc thế hệ cùng thời và là bạn
thân của Thâm Tâm, Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân. ) nói về sự liên hệ tình cảm
giữa Thâm Tâm và TTKh.
Nhà thơ Lương Trúc cho
biết cách đây 4 năm ( 1985 ) ông có gặp TTKh, bà tên thật là Trần thị Khánh,
người yêu của Thâm Tâm. Theo ông, Thâm Tâm và cô Khánh yêu nhau nhưng không lấy
được nhau, vì danh dự của gia đình cho nên họ hứa với nhau giữ kín mối tình đó.
Rồi ngẫu nhiên cô Khánh đọc được truyện ngắn Hoa Tigôn của Thanh Châu trên Tiểu
thuyết thứ bẩy số báo tháng 9 năm 1937, cô ta xúc động với tình tiết của câu
truyện và làm ra bài thơ Hai sắc hoa tigôn gửi đi đăng báo. Bài thơ đã làm xáo
động trong làng thi văn, rồi nàng gửi thêm Bài thơ thứ nhất với mục đính giải
thích cho bài thơ Hai sắc hoa Tigôn.
Ngoài ra TTKh còn viết
tặng riêng cho Thâm Tâm bài thơ Ðan áo cho chồng. Thâm Tâm cảm động với ý tứ
bài thơ và nhất là muốn chứng minh với dư luận đang ồn ào, TTKh chính là người
yêu của mình, ông đã gửi bài thơ ‘’ Ðan áo’’ đến tâp san Phụ nữ thời đàm để phổ
biến.
TTKh không vừa ý với hành
động đó của Thâm Tâm, vì thế cô ta viết một bài thơ khác lấy tên là Bài thơ
cuối cùng, nói lên sự hờn trách người yêu đã vì hư danh mà đem quảng bá bài thơ
mà nàng tặng riêng cho ông ra cho nhân gian biết. Nhưng trong những câu thơ hờn
trách đó nàng vẫn không dấu được lòng yêu thương cố nhân :
Tôi
biết làm sao được hỡi trời
Giận
anh không nỡ ! Nhớ không thôi
Mưa
buồn, mưa hắt trong lòng uớt...
Sợ
qúa đi anh...Có một người !
Dù với lời xác nhận
của nhà thơ lão thành Lương Trúc nhưng vẫn chưa thật sự làm thỏa mãn dư luận
được vì trong đó vẫn còn rất nhiều điểm mù mờ về thân thế, tên tuổi... của
người nữ thi sĩ bí mật đó !
d. Khám phá mới nhất về
TTKh:
Gần đây nhất, vào năm
1994 trong một tài liệu không lưu tên tác gỉa đã tiết lộ một tin tức mới nhất,
được coi là đầy đủ nhất về thân thế của TTKh. Nhưng có lẽ người ta vẫn cần thời
gian để xác nhận mức độ xác thực của tiết lộ này. Theo tài liệu cho biết một
người đàn bà dấu tên D.T.L. đã cho nhà văn Thế Nhật biết như sau:
Bốn chữ TTKh có ý
nghĩa như sau :
-Chữ T đầu tiên là TRẦN, là tên họ của nữ thi sĩ Trần thị Chung tác
gỉa của bốn bài thơ bất tử đó, nhưng thường gọi là Trần thị Vân Chung, bà sinh
ngày 25 tháng 8 năm 1919 tại thị xã Thanh Hóa, nhưng trưởng thành ở Hà nội
trong một gia đình quan lại. Bà Vân Chung hay là TTKh có một người anh cả, hai
người em gái và một người em trai út. Năm 1934 qua mối mai của gia đình bà kết
hôn với luật sư Lê Ngọc Chấn của VNCH, sau năm 1975 ông Chấn bị chết trong trại
cải tạo.
Hiện nay bà cùng con
cái sống ở một thị xã nhỏ miền nam nước Pháp, bà vẫn tiếp tục viết văn làm thơ
với nhiều bút hiệu khác nhau như Vân Nương, Tơ Sương..v..v..
-Chữ T thứ hai, có nghĩa là Thanh, để chỉ tên ký gỉa Thanh Châu, tác gỉa truyện
ngắn ‘’Hoa Tigôn’’. Cốt truyện đã mang đến cho bà sự cảm xúc tột cùng với mối
tình đầy lãng mạn, chung thủy, đã cho bà thi hứng để làm được những bài thơ
tuyệt vời mang đầy cảm giác giận hờn, thương đau và cao thượng .
-Chữ Kh có nghĩa là khóc! Bà khóc thay cho mối tình dang dở với những
trái ngang làm cho người thiếu phụ phải sống trọn cuộc đời với người chồng mà
mình không yêu nhưng cũng không thể quên được người tình xưa cũ của mình.
Nếu tiết lộ trong tài
liệu này là đúng thì tất cả những sự kiện liên quan đến tên tuổi, thân thế của
TTKh trong nhiều thập niên qua, cũng như những thêu dệt lâm ly, trữ tình của ký
gỉa Thanh Châu, thi sĩ Nguyễn Bính, Thanh Tâm và cả thi sĩ J. Leiba chỉ còn là
những tưởng tượng vu vơ, mà những người làm văn nghệ cần đến nó để dìm mình vào
thế giới mộng ảo cho việc tìm cảm hứng để sáng tác mà thôi.
3. Kết luận:
Bản chất của thơ văn
là tưởng tượng và hư cấu. Khi bước vào thơ văn để thưởng thức cái hay, cái cảm
của một áng văn, một bài thơ... Người ta phải biết trải rộng tâm hồn mình ra
tiếp nhận những cảm xúc đưa đến từ bài thơ, bản văn đó. Ðiều đó có nghĩa là
người ta phải sống và hoà nhập vào nội dung của tác phẩm, phải biết vui buồn,
đau khổ hay hoan lạc, giận hờn với những hoàn cảnh éo le của nhân vật trong tác
phẩm. Có được những cái đó trong khi thưởng thức thì coi là ‘’ Ðạt’’ vậy !
Người ta cần biết thân thế hay cuộc đời riêng tư của tác gỉa để làm gì ?Ðôi khi
sự tìm tòi, tò mò đó chẳng có lợi ích gì cho cái thú thưởng lãm của người đọc
mà còn mang đến cho người đọc có cái nhìn sai lệch vì chủ quan, thành kiến với
cá nhân tác gỉa nữa.
Với cái quan niệm đó,
người ta nên nghĩ rằng bốn bài thơ của TTKh đã quá đủ để làm cho người đọc ngẩn
ngơ vì cái hay, cái xúc tích biết bao nhiêu cảm giác đau buồn, thương nhớ, giận
hờn... đôi lúc đã làm người đọc phải lịm người mà nước mắt ướt mi...Như vậy là
đủ rồi ! Chúng ta cần gì phải thắc mắc TTKh là ai làm gì nhỉ ? Nàng là cô nữ
sinh Trần thị Khánh ở phố Sinh Từ, Hà Nội. Nàng là Trần vân Chung hay Trần thị
Vân Chung cô gái đất Thanh hoá... Nàng là ai cũng thế mà thôi! Ðiều quan trọng
mà chúng ta biết rất rõ, những bài thơ của TTKh là những bài thơ rất hay, sẽ
mãi mãi bất tử trong thi đàn VN. Thế là đủ rồi !
Cũng nhân tiện trong
bài viết có lẽ chúng ta cũng nên biết sơ qua về loài hoa Tigôn mà nó đã là đề
tựa cho bốn bài thơ của TTKh ra đời. Hoa Tigôn là một loại hoa leo, có hai
loại, loại cho ra hoa mầu trắng và loại cho ra hoa mầu đỏ hay hồng tươi, có thể
mọc ở toàn cõi VN. Lá Tigôn mầu xanh, hình tim như lá trầu nhưng nhỏ cỡ 3 ngón
tay. Hoa Tigôn nhỏ bằng đầu chiếc đũa ăn cơm, mọc thành chùm, hoa tigôn có 5
cánh hình trái tim, hai cánh nhỏ ở trong và 3 cánh lớn hơn chụm vào nhau bao ở
ngoài. Khi gặp gió hay mưa hoa rụng từ cuống hoa, rơi xuống đất nhưng vẫn còn
nguyên cả bông hoa chứ cánh hoa không tách rờI ra tơi tả như TTKh mô tả trong
thơ của bà:
Thủa
đó nào tôi đã hiểu gì
Cánh
hoa tan tác của sinh ly !
Lưu An
( Thụy Sĩ, August 2003
)
Thông tin mới nhất : Khi bài viết này được phổ biến trên báo Phụ
Nữ Diễn Ðàn USA số tháng 10 /2003 Tôi được một độc gỉa cho biết bà Trần thị Vân
Chung đã đính chính trên một tờ báo nào đó là bà ta không phải là TTKh. Tôi
không biết nguồn tin đó đúng hay sai và nếu có thật như vậy , theo tôi nghi bà
Vân Chung phủ nhận vẫn là thái độ khôn khéo nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét