- Xóm Sông Thương thì có Bàng Bá Lân và Anh Thơ ....
- Xóm Tự Lực thì có Thế Lữ, Xuân Diệu và Huy Cận ....
- Xóm Phương Ðông thì có Lưu Trọng Lư và Thái Can ...
- Xóm Huế thì có Phan Văn Dật, Nam Trân, Nguyễn Ðình Thư ...
- Xóm Hà Tiên thì có Ðông Hồ, Mộng Tuyết....
- Xóm Bình Ðịnh thì có Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên...
Sau nầy ông Hoài Việt đề nghị bổ túc thêm một nhóm nữa đó là:
- Xóm Áo Bào Gốc Liễu thì có Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Nguyễn Bính ....
Nói đến một xóm lẽ tất nhiên phải có nhiều người, nhưng ở đây chỉ tiêu biểu một vài người được coi là xông xáo nổi bật trong xóm mà thôi. Riêng trong Xóm Áo Bào Gốc Liễu có ba người nổi bật, nhưng ở đây chúng tôi xin được đề cập đến hai người: Thâm Tâm và Nguyễn Bính.
A- Thâm Tâm
1- Mấy Dòng Tiểu
Sử
Thâm Tâm tên
thật là Nguyễn Tuấn Trình. Sinh ngày 12-5-1917 tại thị xã Hải Dương(nay thuộc
tỉnh Hải Hưng) trong một gia đình nhà nho nghèo. Sau khi học hết tiểu học ông
bắt đầu viết báo và vẽ tranh. Ông viết rất nhiều thể loại: Thơ, truyện, kịch
..v..v.. và vẽ tranh và viết cho loại sách trẻ em. Ngoài tài viết văn và vẽ
tranh cho trẻ em, ông còn biết làm đồ gốm. Ông tham gia trong công cuộc kháng
chiến chống Pháp vào những năm 1945 và mất vào mùa Thu Ðông năm 1950 sau một
cơn bệnh nặng.
2- Ðời Như Thơ
Ông sanh và
trưởng thành trong một gia đình Nho Giáo, vì thế sau khi học xong tiểu học là
phải ra đời để lo làm sinh sống. Cũng vì thế mà hoàn cảnh tạo cho ông có một ý
chí kiên cường tự lập, nên chúng ta cũng không ngạc nhiên khi biết ông không
những là một nhà thơ, một họa sĩ, mà còn là một người giỏi về đồ gốm:
- Sinh ta, cha
ném bút rồi
Rừng nho tàn
rụng cho đời sang xuân,
Nuôi ta mẹ héo
từng năm
Vắt bầu sữa cạn
tê chân máu gầy
Dạy ta ba bảy
ông thầy
Gươm dài sách
rộng biển đầy núi vơi
Nhà ta cầm đợ
tay người
Kép bông đâu áo,
ngọt bùi đâu cơm?
(Thâm Tâm- Tráng Ca)
Cũng vì
hoàn cảnh gia đình nên ông xa nhà rất sớm. Trong cuộc đời đắng cay lừa lọc tạo
cho ông một ý chí kiên cường đã vươn lên:
- Chữ nhân sáng
rực sao trời
Ðường xa rộng mở
chân người bước xa
Bọn ta một lớp
lìa nhà
Cháo hàng cơm
chợ, ngồi ca lúa đồng.
(Thâm Tâm - Tráng Ca)
Từ khi theo gia
đình chuyển lên Hà Nội sống bằng nghề viết văn viết báo. Nơi đây tại Phố Bạch
Mai ông đã gặp Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân và hình thành nhóm Tam Anh:
- Thăng Long đất
lớn chí tung hoành
Bàng bạc gươm hồ
ánh mắt xanh
Một lứa chung
tình từ tứ chiến
Hội nhau vầy một
tiệc quần anh
(Thâm Tâm - Vọng Nhân Hành)
Sau đó ông cùng
với Trần Huyền Trân và Phạm Quang Hòa ba người hợp tác cho ra một tờ báo:
- Mày gươm nét
mác chữ nhân già
Hàm bành hình
đồi, lưng cỗi đa
Tay yếu đang
cùng tay mạnh dắt
Chưa ngất men
trời hả rượu cha
Rau đất cá sông
gào chẳng đủ
Nổi bùng giữa
tiệc trận phong ba
Rằng: Ðương gió
bụi thì tơi tả
Thiên hạ phải
dùng thơ chúng ta.
(Thâm Tâm - Vọng Nhân hành)
Tờ báo Bắc Hà do
Phạm Quang Hòa cung cấp tiền bạc, còn Thâm Tâm và Trần Huyền Trân chịu trách
nhiệm về bài vở được mọi người hưởng ứng. Tuy nhiên báo chỉ ra được 3, 4 số thì
hết tiền. Thu tiền báo ở các đại lý về không đủ trả tiền giấy, tiền in. Thế là
tờ báo phải dẹp tiệm:
- Thơ ngâm giọng
dở thời chưa thuận
Tan tiệc quần
anh, người nuốt giận
Chim nhạn chim
hồng rét mướt bay
Vuốt cọp, chân
voi còn lận đận
Thằng thí cho
nhàm sức võ sinh
Thằng bó văn chương đôi gối hận
Thằng thư trói
buộc, thằng giã quê
Thằng phấn son
nhơ ... chửa một về
(Thâm Tâm - Vọng Nhân Hành)
Cuộc thất bại nầy không phải chỉ có mỗi một Thâm Tâm đau khổ mà Trần Huyền Trân
cũng ray rứt không kém:
- Tối om kia vận chúng mình
Trai lành bỏ cỗi, gái trinh bỏ già
Mật ngươi nào khác gan ta
Tưới bao nước mắt mới ra nụ cười
Nằm queo ngó lững chim giời
Tuổi xuân thù tạc xế đời vào thu
Quê hương chìm trong khói lửa, dưới gót dày xâm lăng của quân đội viễn chinh
Pháp, chúng nhẫn tâm dẫm nát quê hương yêu dấu Việt Nam, và đó đã là động cơ
thúc đẫy người con trai thời loạn phải lên đường đi cứu nước:
- Ðời tươi như bát nước đầy
Vỡ tan một miếng dưới giầy xâm lăng
Cắn chặt hàm răng
Bậm môi, nghiến lợi, già căn mặt già
Vài mươi ông lão giữ nhà
Thùng lùng dao bảy, đinh ba gối đầu
Ðêm nay thức giấc thương đau
Vụt nghe khốc dạ mấy câu rợn người
Cái gì đấy xóm làng ơi
Ðội quân biệt động xa xôi mới về!
(Thâm Tâm -
CămThù)
Về sau ông đi làm cách mạng, trong công cuộc chiến chống Pháp ông đã tham gia
vào tờ Tiên Phong, cơ quan hội văn nghệ Việt Nam và làm thơ ký toà soạn tờ Vệ
quốc Quân của quân đội:
- Trời hỡi mai nầy tôi phải đi
Thơ nầy chẳng đọc cho ai nghe
Ðời nhiều nhưng có dăm người bạn
Thì viễn ly không có đường về.
(Thâm Tâm -
Ngược Gió)
Còn gì chua xót hơn khi ra đi:
- Mà đọc thơ già tiển trẻ đi
Càng nghe trầm giọng dạ càng se
Ngày mai ngược gió tôi xin ngược
Ai có quan tâm
gọi trở về.
(Thâm Tâm -
Ngược Gió)
Ra đi để làm
tròn sứ mệnh của người con trai thời loạn, mong một ngày giặc tan như khói súng
để trở về đoàn tụ dưới mái ấm của gia đình:
- Sớm dậy thương
nhân lắng gió lên
Ðể phờ mái tóc,
nhắc cương yên
Bàng hoàng khiến
ngựa, người mơ ngỡ
Một cổ thanh
bình trong sáng êm.
(Thâm Tâm-
Mơ Thuở Thanh Bình)
Nhưng đó chỉ là
giấc mơ, còn hiện thực vẫn là hiện thực:
- Chợt bỗng đồn
binh rộn tiếng kèn
Giật mình khách
nhớ một đôi đêm
Hiệu còi phòng
động nghe kinh hoảng
A! thuở trăm
thành gọi lính lên.
Tai hại bao
nhiêu sự thực đời
Trừng lên, dập
hết mộng! Như người
Tưởng yên tĩnh
sống trong khung cổ
Vụt tiếng kèn
vang nhắc ... hiện thời
(Thâm Tâm - Mơ Thuở Thanh Bình)
Trong thời chinh
chiến biết bao nhiêu người con trai ra đi mà không trở lại. Trước tình cảnh đau
thương đó làm sao khỏi chạnh lòng, vì thế nhà thơ đã khóc cho tuổi trẻ mà cũng
như khóc cho chính mình:
- Hiên vẩn vơ
bay mạng nhện tơ
Hồn thương lững
thững ẩm như sương
Ngoài xa đôi
tiếng rao đêm vắng
Rung cả mây trời
cả ý thơ.
(Thâm Tâm - Không Ðề)
Hoặc là:
- Mả lạnh không
hoa, hết cả hương
Hành nhân lạnh nhạt thiếu lòng thương
Dăm người tuổi tác qua thăm viếng
Một buổi rồi quên mất độ đường
(Thâm Tâm - Chết)
Và nhà thơ cũng
đã cầu nguyện:
- Biết mấy đời
trai trong góa bụa
Ðêm ròng đứng
thắp mẩu tâm hương
Tro tàn có đốt
không hồng nữa
Thắt lạnh bên
lòng nỗi hận thương.
(Thâm Tâm-
Không Ðề)
3- Về bài Tống Biệt Hành
Thâm Tâm viết
không nhiều, cả đời thơ chọn lại chưa quá 20 bài. Nhưng nếu chọn mười bài thơ
hay của giai đoạn thơ mới, trong số ấy chắc chắn có bài Tống Biệt Hành. Bài thơ
mang một âm hưởng của cổ xưa trong cách diễn đạt. Nhưng tình cảm của nó lại là
tình cảm đương thời. Nội dung của bài Tống Biệt Hành cho chúng ta hình dung
được tâm trạng của nhà thơ lúc chia tay với gia đình, với người vợ trẻ để lên
đường vào một buổi chiều, tuy vậy trước cảnh kẻ ở người đi tâm sự ai cũng buồn,
nhất là tâm sự lúc chia tay. Cho dù không phải trời tối, nhưng tâm sự người vợ
trẻ buồn thì chắc chắn cảnh cũng không vui:
- Ðưa người ta không đưa sang
Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong.
(Thâm Tâm - Tống Biệt Hành)
Ngày ra đi để thỏa chí nam nhi, nên khi công chưa thành, danh chưa toại thì
quyết định sẽ không bao giờ trở lại:
- Ly khách! ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
(Thâm Tâm -Tống Biệt Hành)
Và rồi:
- Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cùng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
(Thâm Tâm -Tống Biệt Hành)
Ðoạn thơ trên
tác giả cho chúng ta biết ông còn một bà mẹ già hai người chị và một người em.
Và tác giả là người con trai duy nhất trong gia đình. Người ra đi có vẻ hăng
hái lắm, thế nhưng sự thật ông ta rất buồn, buồn từ chiều hôm trước, buồn cả
sáng nay. Ông buồn với chị, mà hai chị khóc cũng đã nhiều rồi, nhưng không muốn
vì tình gia đình mà làm cản trở chí nam nhi, cho nên các chị đã gạt dòng lệ còn
sót lại để tiển đưa em, khuyên em hãy can đảm lên đường:
- Khuyên nốt em
trai dòng lệ sót.
Sau khi ông đi rồi trong gia cảnh giờ đây chỉ còn lại bốn người phụ nữ, một già
ba trẻ yếu đuối giống như sen cuối mùa, Ít oi thưa thớt:
- Bây giờ mùa hạ
sen nở nốt
Một chị, hai chị cùng như sen
Lúc ấy đã cuối
mùa hạ nhưng chưa vào Thu. Mùa Hạ cây vẫn còn tươi, lá vẫn còn xanh là thời
điểm nhà thơ phải lên đường theo tiếng gọi của non sông. Tâm lý lúc nầy như có
mâu thuẫn, nửa thì hăng hái lên đường, nửa lại nuối tiếc một thẫn thờ. Giữa hai
sự lựa chọn, ở lại thì thấy thiếu bổn phận với núi sông, mà ra đi thì phải chấp
nhận sự chia ly. Nhưng cuối cùng cũng phải ra đi để làm tròn bổn phận của người
trai thời loạn:
- Người đi? Ừ
nhĩ người đi thực
Mẹ thà coi như
chiếc lá bay
Chị thà coi như
là hạt bụi
Em thà coi như
hơi rượu say.
Qua bài thơ Tống
Biệt Hành, chúng ta thấy toàn bộ nội dung của bài thơ giống như cuộc đời của
ông. Quả thật như vậy, ông ra đi khi quê hương còn đang chìm ngập trong bom đạn
khói lửa:
- Chí lớn chưa
về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại.
Ông đã một lần đi là một lần vĩnh biệt
B- Nguyễn Bính
Nguyễn Bính sanh năm Mậu Ngọ (1918) tại Thôn Thiện Vịnh, xã Cộng Hòa, huyện Vụ
Bản, tỉnh Hà Nam. Thân phụ là cụ Nguyễn Ðạo Bình làm nghề dạy học. Thân Mẫu là
cụ bà Bùi Thị Miện con gái của một gia đình khá giả, có truyền thống yêu nước.
Cụ bà mất vì bị rắn độc cắn để lại ba người con trai:
1- Nguyễn Mạnh Phát tức là Trúc Ðường lúc đó 6 tuổi
2- Nguyễn Ngọc Thụ, lúc đó 3 tuổi.
3-
Nguyễn Bính lúc đó chưa đầy một tuổi.
Mấy năm sau vì
cửa nhà đơn chiết nên cụ ông cưới bà Phạm Thị Duyên là kế mẫu. Kế mẫu lại sanh
thêm được bốn ngườỉ con: Hai trai, hai gái. Có lẽ vì không tiện sinh sống với
kế mẫu nên dì ruột là bà cả Giần giàu có và cậu ruột là ông Bùi Trình Khiêm đón
cả ba anh em của Nguyễn Bính về nuôi cho ăn học. Ông Khiêm dạy chữ hán cho ba
anh em, Nguyễn Bính học có vẻ xuất sắc hơn hai anh. Lúc Trúc Ðường vào Tiểu
Học, thì Nguyễn Bính học Sơ Học. Khi Trúc Ðường vào Trung Học, thì Nguyễn Bính
vào Tiểu Học. Nguyễn Bính biết làm thơ từ thuở nhỏ vì thế mà được cậu cưng
chiều. Năm 1932-1933 sau khi tốt nghiệp bằng thành chung thì Trúc Ðường vào dạy
học ở một trường tư thục tại Hà Ðông. Vì phải thay thế mẹ chăm sóc các em nên Trúc
Ðường cũng dẫn Nguyễn Bính đi theo và dạy thêm Pháp Văn. Trúc Ðường lúc dạy học
ông cũng bắt đầu làm thơ viết văn, và đã truyền đạt vốn luyến đó cho Nguyễn
Bính. Có thể nói cuộc đời của Nguyễn Bính gắn bó với Trúc Ðường cả văn chương
và đời sống. Trúc Ðường hay đưa Nguyễn Bính giữ được mạch thơ dung dị giữa các
vùng Nam Ðịnh, Ninh Bình, Thái Bình, Phủ Lý, hoặc hay đi tới các miền khác như
Hà Ðông, Sơn Tây, Hoà Bình, Ðộng Hương Tích. Những năm ấy đã có bài thơ Cô Hái
Mơ xuất hiện trên văn đàn:
- Thơ thẩn đường
chiều một khách thơ
Say nhìn ra rặng
núi xanh lơ
Khi trời lạnh
lẽo, và trong trẻo
Thấp thoáng rừng
mơ cô hái mơ.
Hỡi cô con gái
hái mơ già
Cô chửa về ư?
đường thì xa
Mà ánh chiều hôm
dần một tắt
Hay cô ở lại về
cùng ta?
Nhà ta ở dưới
gốc cây dương
Cách động hương
sơn nữa dặm đường
Có suối nước
trong tuôn róc rách
Có hoa bên suối
ngát đưa hương.
Cô hái mơ ơi
Chẳng trả lời
nhau lấy một lời
Cứ lặng rồi đi,
rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt
lá mơ rơi...
(Nguyễn Bính - Cô Hái Mơ)
Hai bài thơ dài:
Lỡ Bước Sang Ngang và Mười Hai Bến Nước cũng được sáng tác trong khi hai anh em
đi chơi thuyền trên sông Nhuệ ở Hà Ðông. Cuộc sống nhờ có Trúc Ðường chăm sóc
và lo lắng mọi thứ cho nên Nguyễn Bính không lo lắng gì cả, vì thế không biết
quý trọng đồng tiền. Xong tiểu học Nguyễn Bính lên Trung Học, Trúc Ðường đành
để cho ông theo nghiệp Thơ Văn. Ông thích đi Hà Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn,
Thanh Hóa, đi đến đâu cũng sáng tác thơ tại đó. Những năm kế tiếp Nguyễn Bính làm
ra tiền nên ông đi càng nhiều, nhưng khi xài hết tiền thì lại về ở với Trúc
Ðường. Ðến năm 1940, Nguyễn Bính bắt đầu nổi tiếng với số lượng thơ khá nhiều,
đề tài phong phú, trong những số thơ của ông, Thơ tình là nhiều hơn hết. Cũng
trong năm 1940 Ông xin phép Trúc Ðường vào Huế để tìm đề tài sáng tác, Trúc
Ðường tán thành nhưng không có tiền, nên đã cho người em thân yêu máy ảnh và
đồng thời Trúc Ðường còn về quê bán thêm dãy thềm đá xanh là vật báu duy nhất
còn lại của gia đình, đưa tất cả số tiền cho Nguyễn Bính và giao ước:
- Anh sẽ viết
xong Nhan sắc vào năm 1941. Vào Huế Bính gủi thơ ra anh dọc trước, rồi đăng báo
sau.
Ðúng hẹn cuối
năm 1941 đầu năm 1942, Trức Ðường nhận được nhiều bài thơ của Nguyễn Bính trong
đó có: Xuân Tha Hương, và Oan Nghiệt, Trúc Ðường rất thích. Ðồng thời đầu năm
1942 cuốn Nhan Sắc của Trúc Ðường cũng ra mắt bạn đọc.
Nguyễn Bính trở lại Hà Nội, về thăm quê rồi lại đi làm thơ. Lần chia tay cuối
cùng với Trúc Ðường vào năm 1943, đến năm 1945 tin tức thưa dần. Năm 1946 mất
liên lạc hẳn, cho đến năm 1954 tập kết ra Hà Nội, Bính lại về ở với gia đình
Trúc Ðường.
Nguyễn Bính mất ngày 21 tháng 01 năm 1966 tức là ngày 30 Tết năm Ất Tỵ. Phần mộ
ông được an táng tại nghĩa trang thành phố Nam Ðịnh như những người dân bình
thường khác. Ðến năm 1968, mộ ông lại được cải táng, và người ta đưa ông về
nghĩa trang Tam Ðiệp.
Tháng 01 năm 1986, nhà xuất bản Văn Học và Hội Văn Học Nghệ Thuật Hà Nam Ninh
hợp tác ấn hành Tuyển Tập Nguyễn Bính với số lượng 40,500 cuốn. Tiếp theo đó là
những tuyển thơ khác theo chuyên đề thơ Nguyễn Bính cũng được ra mắt bạn đọc.
Cũng từ đó ngươi ta mới nhận ra rằng Nguyễn Bính quả thật là một thi sĩ lớn.
Nguyễn Bính là một nhà thơ lớn mà để phần mộ ông nằm xa tít ở núi Tam Ðiệp là
không ổn, vì thế người ta mới quyết định đưa ông về quê. Nhưng tại quê hương
ông nhà cũ và mảnh vườn cũ của ông bà thân sinh đã nhường cho gia đình bà
Nguyễn Thị Hường, là người con ông chú của Nguyễn Bính. Cuối cùng người ta mới
quyết định an táng hài cốt của ông tại khu Mã Quan cạnh mộ ông nội. Ðây là một
cồn đất nằm ở rìa làng, phía bên phải thì sầm uất xóm làng, phía bên trái là
cánh đồng. Trước kia có nhiều mồ mả, nhưng người ta đã dời đi nơi khác chỉ còn
lại mồ của hai ông cháu nằm lặng lẽ bên khóm tre, khóm chuối và ao rau muống.
Tuy nhiên vì bà con họ hàng làng xóm cứ cảm thấy không yên lòng, nên cuối cùng
cấp lãnh đạo xã, huyện, tỉnh mới thương lượng và mua cho bà Nguyễn Thị Hường
một mảnh đất khác để ở, đưa mộ Nguyễn Bính về tại nơi ông cất tiếng khóc chào
đời. Bà Hường bằng lòng nên cuối năm Canh Ngọ(1990), mộ Nguyễn Bính được chính
thức đưa từ khu Mả Quan vào mảnh đất vốn là nhà của bố mẹ mình. Mộ được xây ở
giữa khu đất rộng bốn sào, nằm chính giữa làng Thiện Vịnh, chung quanh rợp bóng
tre, cây ruối. Ngôi mộ đơn sơ hình chữ nhật, có đắp nổi hình ngọn bút với dòng
chữ: Phần Mộ Nhà Thơ Nguyễn Bính (1918-1966). Như vậy kể từ khi hắt hơi thở
cuối cùng cho đến nay trải qua bốn chặng đường giang hồ thi sĩ mới có một nơi
yên nghỉ cuối cùng.
C- Mối Tình Thơ
Của Hai Nhà Thơ Xóm Áo Bào gốc Liễu
Trên văn đàn
Việt Nam vào những năm 1937-1940 khi nói đến nhà thơ Thâm Tâm thì nhiều người
nghỉ ngay đến T. T. Kh. Vậy T. T. Kh là ai? Trả lời cho nghi vấn nầy thì đã có
nhiều giấy mực trả lời nhiều cách khác nhau:
- Nhiều người
nói: T. T. Kh là người yêu của Thâm Tâm
- T. T. Kh.
chính là Thâm Tâm
- T. T. Kh.
Chính là Trần Thị Khánh
- T. T. Kh. Là
Thâm Tâm Khánh.
- T. T. Kh. Là
Tuấn Trình Khánh(Vì tên thật của Thâm Tâm là Nguyễn Tuấn Trình)
Có người còn nói
T. T. Kh. chính là Trần Thị Khánh, người em gái đồng tông của nhà thơ Tế Hanh ở
Thanh Hóa ..v..v..
Cuộc tìm kiếm,
tranh luận sôi nổi nầy theo ông Mã Giang Lân nói:
- Ông
Thanh Châu chính là người khơi nguồn thiên tình hận nầy. Năm 1937 Tuần Báo Tiểu
Thuyết Thứ Bảy đăng tập truyện ngắn của ông Thanh Châu kể lại mối tình ngang
trái giữa chàng nghệ sĩ và thiếu nữ Mai Hạnh. Họ đã gặp nhau dưới hoa ti-gôn.
Nàng sợ bố mẹ khổ tâm, sợ tai tiếng ở đời .... nên không dám bỏ nhà đi theo
người yêu. Nàng phải sống gượng ép với một người chồng. Ít ngày sau tòa soạn
báo nhận được hai bài thơ Bài Thơ Thứ Nhất, và Hai Sắc Hoa Ti Gôn của một người
ký tên là T. T. Kh. Khi hai bài thơ đó được đăng tải, thì lúc đó đã có nhiều
người nhận T. T. Kh là người yêu của mình trong đó có: Nguyễn Bính, J. Leiba,
và Thâm Tâm.
a- Nguyễn Bính
thì cho đăng bài thơ: Dòng Dư Lệ
- Cho tôi ép nốt
dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành
thơ khóc chút duyên
Và bài thơ Cô
gái Vườn Thanh.
b- J. Leiba tức
là Lê Văn Bái thì cho đăng bài thơ Hai Sắc Hoa ti Gôn trên báo Ngọ và phía dười
có cảm đề mấy cây như sau:
- Anh chép bài
thơ tự trái tim
Của người thiếu
phụ lỡ làng duyên
Lời thơ tuyệt
vọng ca đau khổ
Yên ủi anh và để
tặng em.
c- Thâm Tâm đã
làm bài thơ Các anh:
- Các anh hãy
uống thật say
Cho tôi những
cốc rượu đầy rồi im
Giờ hình như quá
nửa đêm
Lòng đau đau lại
cái tin cuối mùa
Hơi đàn buồn như
trời mưa
Các anh tắt nốt
âm thừa đi thôi
Giờ hình như ở
ngoài trời
Tiếng xe đã
nghiến đường rời rã đi
Tâm tình anh
nhạt đâu nghe
Tiếng mùa lá
chết đã xê dịch nhiều
Giờ hình như gió
thổi nhiều
Những lại hoa
máu đã gieo nốt đời
Bao nhiêu nghệ
sĩ nổi trôi
Sá chi cái đẹp
dưới đời mong manh
Sá chi những
chuyện tâm tình
Lòng đau như
chứa trong bình rượu say.
Cả ba đồng vọng
đáp lại tiếng lòng của Thiếu Nữ, và cũng là giãi bày tâm trạng đớn đau của
mình. Cũng từ đó cho đến ngày nay trên văn thơ đàn đã tạo nên một cuộc dư luận
vô cùng sôi nổi cho đến ngày nay.
Nói về T. T. Kh
là ai? Cho đến bây giờ chưa có một ai biết được chính xác là có thật hay chỉ là
một nhà thơ nào đó lấy tên như vậy, và là nam hay nữ? Bí mật vẫn còn trong vòng
chưa được bậc mí. Luận giải về sự kiện nầy có những minh định như sau:
1- Theo ông Bùi
Viết Tân nói:
- Cuối năm 1949,
trong một chuyến đi dài ngày từ liên khu III lên Việt Bắc, tôi có dịp đồng hành
với thi sĩ Thâm Tâm, tức là Nguyễn Tuấn Trình. Từ vùng hậu địch vượt đường số
5, theo những người buôn muối để lên Việt Bắc, chúng tôi là những người lữ hành
ngày nghỉ đêm đi. Trong những lúc nghỉ ngơi tại những căn cứ du kích nằm giữa
vùng Tề, anh Thâm Tâm thường tâm sự với tôi những chuyện tâm tình liên quan đến
thơ văn. Chẳng hạn như nhân vật gây nguồn cảm hứng để cho anh sáng tác bài Tống
Biệt Hành là một người tên là Phạm Quang Hòa, trước năm 1945 thoát ly gia đình
ra đi lên chiến khu làm cách mạng. Bài thơ chỉ là một tác phẩm của sự ngẩu
hứng, nhưng cái ngẩu hứng nầy là tích lũy cuả bao nhiêu ngày tháng dồn nén của
một nhà thơ muốn ra đi, muốn làm một cái gì, do đó khi thấy bạn ra đi đã trút
cả nỗi lòng vào bài hành mang tên Tống Biệt.
Tôi hỏi anh Thâm
Tâm, nhân vật Phạm Quang Hòa ở đâu, còn sống không? Anh Thâm Tâm cho biết Phạm
Quang Hòa ra đi và đã trở về, và đang tiếp tục cuộc sống của một người trai
thời loạn.
Nhân câu chyện
vui, tôi hỏi anh Thâm Tâm về chuyện những bài thơ ký tên T. T. Kh.
- Theo ý ông thì
những bài thơ này của ai?
- Người ta nói của người tình Thâm Tâm. Phải vậy không anh?
- Ông có đọc bài thơ ký tên Thâm Tâm đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 307, ra
ngày 4 tháng 5 năm 1940 chứ?
- Ðã có đọc, có phải bài Các Anh không nhỉ?
- Ðúng thế, tất cả đều liên quan đến chuyện tình, nhưng thật ra thì những bài
thơ ký tên T. T. Kh. là do mình sáng tác ra thôi.
- Như vậy là Nguyễn Bính cũng bị xiếc vào trong câu chuyện nầy?
- Chuyện nầy chỉ có mình và Trần Huyền Trân biết thôi. Nguyễn Bính là một nhà
thơ tài hoa nhưng ngây thơ lắm.
- Câu chuyện nầy có liên quan gì tới đất Thanh Hóa không anh?
- Ðịa danh Vườn Thanh trong thơ là nó tới đất Thanh Miện ở Hải Dương, quê hương
của trái vải. Nhưng Nguyễn Bính lại tưởng lầm là Thanh Hóa ... Do đó mới có
chuyện vui vẻ.
- Tại sao anh sáng tác những bài thơ ký tên T. T. Kh hay như vậy mà lại không làm
loại thơ nầy nữa.
- Vào những năm cuối thập niên ba muơi bắt đầu thập niên bốn mươi, bọn mình
sống cuộc đời như dỡn với ngày tháng. Nhưng sau đó thì bọn mình đã tìm ra lối
thoát cho cuộc đời và muốn làm cho cuộc đời đổi mới. Chính bài Các Anh rồi sau
đó Tống Biệt Hành là chứng tích của sự thay đổi nầy.
Nói dứt lời Thâm Tâm khẻ ngâm cho tôi nghe bài Các Anh:
- Các anh hãy uống thật say
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im
............................................................
Ngâm dứt bài thơ Thâm Tâm quay ra hỏi tôi:
- Ông thấy bài thơ nầy thế nào?
- Khác hẳn hơi thơ trong Tống Biệt Hành và những bài khác anh đã đăng báo.
- Người làm thơ có quyền được làm nhiều loại thơ khác nhau chứ. Bài nầy mình
cũng đăng trên báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy từ tháng năm 1940.
- Những bài thơ anh làm ký tên T. T. Kh. có liên quan gì đến nhân vật tên Khánh
không?
- Xin ông cho mình miễn trả lời câu hỏi nầy. Mình đã có gia đình và nhân vật
trong thơ cũng vậy. Xin lỗi nhé.
2- Theo ông Hoài Anh khẳng định:
- Các bài thơ Hai Sắc Hoa Ti Gôn, Bài Thơ Thứ Nhất, Ðan áo cho chồng, bài Thơ
Cuối Cùng tất cả đều do chính Thâm Tâm sáng tác ký tên là T. T. Kh. Còn bài Các
Anh thì đúng là do Thâm Tâm.
3- Theo ông Thanh Châu thì trình bày:
- Hôm nay, nhân tìm lại những tư liệu còn giữ được, tôi muốn kết thúc cái
chuyện cũ càng mờ mịt nầy bằng cách công bố thêm một điều lạ, là thủ phạm của
sự “nhiễu” nầy khiến thiên hạ càng phỏng đoán, đoán mò, chỉ tại hai người:
a- Nguyễn Bính đã đăng một bài thơ đề tặng T. T. Kh. bài Cô gái Vườn Thanh in
năm 1940. Ðọc lại bài thơ nầy, người ta thấy Nguyễn Bính có đến Vườn Thanh, trọ
nhà một ông già, ông nầy kể cho nghe chuyện một thiếu phụ cũng đêm đêm bên cạnh
chồng già-bên cạnh bóng người xa hiện về.... Rồi Nguyễn Bính tự hỏi:
- Bao nhiêu oan khổ vì tình
Cớ sao giống hệt chuyện mình gặp xưa?
Phải chăng mình có nên ngờ
Rằng người năm ngoái bây giờ là đây?
Khi Nguyễn Bính ra thơ đề tặng T. T. Kh. Bởi vậy, có người đã khẳng định: Ông
Bính là người yêu của T. T. Kh. Nên là thơ tế nhị nói chuyện nọ ra chuyện kia.
b- Người thứ hai chính là Thâm Tâm khi có bài thơ Màu Máu Ti Gôn gửi T. T. Kh.
Tác giả bài thơ Hai Sắc Hoa Ti Gôn:
- Người ta trả lại cánh hoa tàn
Thôi thế duyên tình cũng dở dang
Màu máu ti-gôn đà biến sắc
Tim người yêu cũ phủ màu tang.
..........................................................
Thôi em hãy giữ cành hoa úa
Kỷ niệm ngàn năm một cuộc đời.
Sau khi luận giải thì ông Thanh Châu đã đưa tới kết luận:
- Một người nghiêm túc như Thâm Tâm mà anh em văn nghệ thời trước từng quen
biết, có thể có cử chỉ và lời thơ dễ dãi, vô ý thức như vậy không? Ðó là điểm
đáng ngờ.
Như trên chúng ta thấy ít ra cũng đã có đến hai người minh xác T. T. Kh. đích
thực là Thâm Tâm, nhưng cũng theo ông Thanh Châu thì T. T. Kh. là T. T. Kh chứ
không thể là Thâm Tâm được, như ông nói:
- Hồi làm báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy ở Hà Nội, vì gia đình tôi ở thị xã Thanh Hóa,
nên thời thường vẫn đi về, cũng như Nguyễn Tuân và Hồ Dzếnh có gia đình ở thị
xã nầy.
Một hôm, tôi không có ở nhà, thấy mẹ tôi bảo có một người con gái đến
chơi, không chịu nói tên, chỉ để lại một bó hoa ti-gôn rồi cáo lui. Từ đó không
lần nào trở lại. Ai nhỉ? Tuổi tôi lúc đó cũng có dăm ba bạn gái, nhưng thời
gian nầy, báo đã đăng mấy bài của T. T. Kh rồi, vậy đó là người đã đọc truyện
“Hoa Ti-gôn” của tôi, hay đã yêu thơ của T. T. Kh. mà tìm đến?
Ông Thanh Châu còn nói thêm:
- Riêng tôi khi đọc lại thơ của T. T. Kh. Tôi ngạc nhiên thấy phong cách thơ
của bà nầy khác xa thơ của ba ông bạn Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân
cùng thời. Thơ của T. T. Kh. không có những chữ:
- Ly khách, cửa
ải xa, xóm thanh bình, trường thành, quan san, trường đình, thét roi, cô phụ,
đoạn trường... giống như Thâm Tâm.
- Rau tần, ngõ
trúc, tương tư, giang hồ, nhân thế, biển dâu, khóm trúc, phong ba, hoa đèn,
giọt dòng, lưu biệt, thiên thu, tịch liêu ... giống như Trần Huyền Trân.
- Vương tơ, lão
bộc, vật đổi sao rời, quay tơ, guồng tơ, hận tình, buồng the... giống như
Nguyễn Bính.
Thơ của T. T.
Kh. Kể chuyện mình một cách giản dị, không sáo ngữ, lúc thì thanh minh:
- Ba năm ví biết
anh còn nhớ
Em đã câm lời có
nói đâu.
Có lúc lại
trách:
- Trách ai mang
cánh ti-gôn ấy
Mà viết tình em
được ích gì!
Rồi có lúc lại than:
- Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Có lúc lại hối tiếc:
- Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi người ấy có buồn không?
Thơ của T. T. Kh. không tìm chữ lạ, không làm dáng nên dễ đi vào lòng người,
nhất là lòng bạn gái cùng cảnh ngộ, luyến tiếc thời thơ ngây của con gái, lắng
nghe tiếng lá thu rơi mặt hè, tưởng tượng những bước chân người yêu trở lại,
càng lo sợ. Tả cái giận, nói được nỗi lòng yếu đuối của mình đối với người yêu
mà mình không rứt được ...
Kết Luận:
Nhìn vào bối
cảnh xã hội của những năm cuối thập niên 30, bắt đầu thập niên 40 quê hương ta
chìm trong máu lữa chiến tranh, mọi thân phận con người sống ngày nay mà không
biết ngày mai. Hoàn cảnh gia đình vô cùng phức tạp, chồng xa vợ, cha khóc con,
vợ lìa chồng ... giống như Thâm Tâm đã từng nói:
- Bọn mình sống
cuộc đời như dỡn với tháng ngày.
Quả thật là như
vậy, cuộc sống, và hạnh phúc gia đình của mỗi nguời dân trong lúc đó thật là
mong manh, vì thế, có nhiều khối óc, con tim muốn làm một cái gì đó cho nhân
loại cũng khó mà thực hiện. Ngay cả quyền yêu thương cũng bị hạn chế đến mức độ
tối đa, để rồi biết bao nhiêu cậu thanh niên, cô thiếu nữ phải xa nhau trong
đắng cay chua chát, dang dở. Thực tế luôn luôn lúc nào cũng cay đắng, chua
chát, phủ phàng, cho nên con người chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc trong tưởng
tượng, trong lý tưởng. Thơ văn là môi trường có thể thực hiện dễ dàng trong
lãnh vực tượng tượng một cuộc sống, hoặc một chuyện tình lý tưởng, vì thế chúng
ta không ngạc nhiên khi câu chuyện tình lịch sử nầy xuất hiện trên văn thơ đàn
Việt Nam và vẫn tồn tại trong lòng người trong mấy mươi năm qua.
Như trên chúng ta thấy, khi nói về T. T. Kh là ai, thì đã có những tranh luận
sôi nổi trước đây, theo các khuynh hướng:
- T. T. Kh chính
là Thâm Tâm
- T. T. Kh chính
là Trần Thị Khánh
- T. T. Kh là
người tình của Thâm Tâm và Nguyễn Bính
Và gần đây thì
có đề cập đến:
- T. T. Kh chính
là bà Vân Nương - Trần Thị Vân Chung ..v..v..
Nhất là sau khi
cuốn sách T. T. Kh. Nàng là ai, của Thế Nhật ra đời, theo ông Hoài Việt
thì tính cho đến nay có tới 68 bài báo phản ứng về câu chuyện tình lịch sử nầy.
Vì thấy tốn nhiều giấy mực mà sự thực vẫn không đi đến đâu nên ông Thanh Châu
cũng có lần đã đề nghị:
- T. T. Kh là
ai? Có lẽ ta cũng chẳng cần biết rõ đó là ai? Một người phụ nữ vào thời đó đã
làm thơ, đã theo kịp trào lưu thơ mới, là điều đáng trọng. Tôi không tin rằng
ai đó đã tìm được bà.
Và các ông Lương
Trúc, Mã Giang Lân, Hoài Việt ... cũng đồng một quan điểm:
- Ta hãy nên để
cho cái tên T. T. Kh. được yên trong lòng bạn đọc xưa nay vốn hâm mộ người thơ.
Theo chúng tôi
nghĩ: Về việc T. T. Kh. là ai? Có thật hay không thật. Có đúng là người tình
của cố thi sĩ Thâm Tâm và Nguyễn Bính hay không? Nó không phải là vấn đề bàn
thảo ở đây. Lý do mà chúng tôi góp nhặc những dữ kiện nầy sắp xếp chung lại cho
bạn đọc, đọc cho vui vì thấy rằng:
- Sự kiện đã
từng được các bậc tiền bối bàn thảo nhiều trong mấy mươi năm qua, nếu đây là
một chuyện tình bí ẩn có thực trong cuộc sống thì đó là lẽ thường. Còn nếu
không có thực thì chúng ta hãy cứ coi đây là Mối Tình Thơ Của Hai Nhà Thơ Xóm
Áo Bào Gốc Liễu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét