Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Phim tài liệu "Nhớ Thâm Tâm"

"Nhớ Thâm Tâm" là bộ phim tài liệu do VTV thực hiện và phát năm 2000, kỷ niệm 50 năm ngày mất của Nhà thơ liệt sĩ Thâm Tâm. Kịch bản Hoàng Quảng Uyên, Đạo diễn Trần Minh Đại, Phó đạo diễn Thanh Tú, Quay phim Lô Thắng, Nguyễn Hiếu, Lời bình Đào Trọng Khánh, Thuyết minh Kim Tiến.
Xin giới thiệu bộ phim:
 

Ảnh Thâm Tâm và đồng đội

Thâm Tâm và đồng đội tại Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị
Cùng đồng đội Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Mai Văn Híến, Lê Hai, Trúc Kỳ,... tại Báo Vệ quốc quân
Người lính Thâm Tâm

Ảnh đám tang Nhà thơ Liệt sĩ Thâm Tâm, ngày 18-8-1950, tại Cao Bằng

Đưa quan tài từ trên nhà sàn, có 9 ống bương trên chái nhà
Đồng đội đưa tiễn

Hạ huyệt
Mặc niệm
Đồng đội và nhân dân địa phương chào vĩnh biệt
Nhà sàn gần 60 năm trước vẫn còn 9 ống bương ngày xưa, ảnh chụp năm 2008

Ảnh gia đình Nhà thơ Thâm Tâm

Cụ giáo Nguyễn Tuấn Thịnh, thân sinh của Nhà thơ Thâm Tâm
Cụ giáo Thịnh và con trai Nhà thơ, ảnh do Thâm Tâm chụp trong lần về Đường số 5, 1948
Nguyễn Tuấn Khoa, con trai Nhà thơ, chụp năm 1948
Bà Phạm Thị An, vợ Nhà thơ Thâm Tâm (1920-2005)
Bà Nguyễn Thị Vượng (ngồi giữa), chị cả Nhà thơ, và gia đình
Bà Nguyễn Thị Oanh, chị thứ hai Nhà thơ
Bà Nguyễn Thị Thục, em gái Nhà thơ
Ông Nguyễn Tuấn San, tức Hoài Niệm, Bắc Thôn, em trai út Nhà thơ
Vợ và con trai Nhà thơ, ảnh chup năm 1965
Con dâu Nguyễn Ngọc Mỹ
Cháu trai Nguyễn Tuấn Huy
Cháu gái Nguyễn Mỹ Trang
Bà Phạm Thị An và các con, cháu dâu, rể và 2 chắt Nguyễn Phương Nhi, Trần Ngọc Giáng My
Chắt bé nhất Trần Ngọc Mỹ Anh

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

Huyền thoại hoa Ti gôn - Ngọc Thiên Hoa


Hình gia đình Nguyễn Tuấn Khoa - Con trai duy nhất của nhà thơ Thâm Tâm

HUYỀN THOẠI HOA TI-GÔN TÓM LƯỢC (*)


Nhà thơ Thâm Tâm tức Nguyễn Tuấn Trình cùng gia đình từ Hải Dương lên Hà Nội kiếm sống 1936 bằng làm thơ và vẽ tranh… Tại Hà Nội, anh đã gặp và yêu Từ Thị Khánh, cô học sinh lớp nhất trường Tiểu học Sinh Từ. Cùng năm ấy, mối tình đầu của họa sĩ Nguyễn Tuấn Trình với Từ Thị Khánh dang dở vì Khánh nghe lời mẹ đi lấy chồng.


Trong những ngày đi dạo Hà Nội để tìm gặp chàng họa sư Lê ở làng Mọc và cô gái gỡ hoa Ti-Gôn đang nở đầy ở Hà Nội, Thanh Châu đã cảm hứng về những gì mình thấy rồi viết truyện ngắn "Hoa Ti-Gôn" hư cấu một cuộc tình của họa sĩ Lê Chất và cô Mai Hạnh đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 174, thứ bảy ngày 25/09/1937 (ngày 4, thứ bảy như đã chọn trong phần I theo lịch Vạn niên là đúng với thời điểm hoa Ti-Gôn nở rộ. Nhưng ngày 25, thứ bảy chính xác với số báo 174 để HSGTG ra tiếp trong số 179 cũng theo lịch Vạn niên).


Tuấn Trình đã đọc truyện này vì Thanh Châu và anh cùng làm chung trong TTTB. Truyện Hoa Ti-Gôn với những sắc hoa đỏ rụng ngập trời đã khơi dậy trong chàng họa sĩ, thi sĩ một kỷ niệm đau thương. Hoài niệm về cuộc tình đã mất bằng tấm chân tình, Tuấn Trình đã viết bài thơ "Hai sắc hoa Ti-Gôn" ẩn dụ một tình yêu tinh khiết và đổ vỡ như hoa Ti-Gôn bằng chất nghệ sĩ trong tâm hồn. Bài thơ đăng trên TTTB số 179 ngày thứ bảy 30/10/1937. Bút hiệu T.T.Kh chính là "Tuấn Trình - Khánh".


Bút hiệu T.T.Kh là một cô gái với tình sử đau thương bỗng dưng là hiện tượng "ăn khách" trên báo chí thời bấy giờ. Tuấn Trình sau khi trút hết tinh túy vào HSHTG thì không ra bài thơ nào nữa về nội dung này. Vũ Đình Long "bật đèn xanh" cho anh em trong báo TTTB hành động…


Trần Huyền Trân, người bạn nối khố trong nhóm "Tam Anh - Áo bào gốc liễu" của TT cùng Nguyễn Bính, biết chuyện tình của Tuấn Trình và cô Khánh (vì họ cùng ở chung một căn gác thuê trong ngõ Sầm Công – Hà Nội) và biết bài thơ này là do Tuấn Trình làm. Vốn không ưa mấy về chuyện tình yêu nam nữ mà người phản bội là Khánh đối với bạn mình, nhân có sự gợi ý từ chủ báo kiêm chủ bút Vũ Đình Long nên Trần Huyền Trân mới cùng Đinh Hùng, chàng thi sĩ siêu tưởng, viết bài "Màu máu Ti - Gôn" gởi thẳng "T.T.Kh, tác giả bài HSHTG" (ám chỉ Tuấn Trình) ngấm ngầm với nội dung thẳng thừng mai mỉa cuộc tình nói trên cần phải sòng phẳng như một ván bài và cuộc tình đã trôi qua như "cánh hoa tàn", khuyên ngầm tác giả HSHTG không nên thương tiếc và cũng chẳng nên giữ lại những kỷ niệm đớn đau trong lòng làm gì nữa!

"Nhất tiễn song điêu" của THT và ĐH bước đầu thành công. Tuần báo TTTB qua mặt tất cả các báo lớn như "Phong Hóa - Ngày Nay" của Nhất Linh, "Hà Nội Báo" của Lê Tràng Kiền... ở Hà Nội về chủ đề này. Tờ TTTB lại có cơ hội làm ăn vì độc giả liên tục gởi thư về toà soạn hỏi thăm cô gái trong HSHTG. Dĩ nhiên, T.T.Kh làm gì có thật nên “Tổ hợp thơ Thâm Tâm và T.T.Kh” phải tiếp tục vào cuộc. "Bài thơ thứ nhất" (lấy lại giọng điệu nội dung và thêm chi tiết hơn từ HSHTG) được đăng trên TTTB, thứ bảy ngày 20/11/1937, số 182 do Nguyễn Bính cùng Trần Huyền Trân làm đạo diễn. Nhưng nội dung chỉ có bấy nhiêu, không nhập tâm được thêm những gì từ mối tình đã chết này, Nguyễn Bính đành phải dùng kế "điệu hổ ly sơn" (nhử cọp về rừng) với chiêu "dương đông kích tây" (dàn bên đông như đánh bên tây) là bài "Dòng dư lệ" tức "Cô gái vườn Thanh" khiến người đọc tin rằng Nguyễn Bính là người yêu của T.T.Kh để nằm ngoài danh sách đời sau đi truy tìm thủ phạm T.T.Kh. Bài thơ này, hiện tại đã ngẫu nhiên làm "lộ hình" Nguyễn Bính vì nội dung chẳng ăn nhập với người trong cuộc. Trong khi đó, nhu cầu thơ lúc bấy giờ với chủ đề tình yêu dang dở, số phận hẩm hiu được đưa lên hàng đầu cho ăn khách, Trần Huyền Trân hay mỉa mai một cuộc tình và là người thường dùng từ "chim lồng cá chậu" cùng Nguyễn Bính thiên về nội dung "đan áo len", "chị - em", cả hai với thi pháp lục bát chắc tay hơn các thi sĩ khác đã song tấu ra "Bài thơ đan áo" tức "Đan áo cho chồng" năm 1938 vẫn ký T.T.Kh để câu khách. Không có nguồn nào nói đăng trên TTTB (chúng ta chờ sau này có ai sưu tầm TTTB với các số có đăng ĐACC hay không? Chắc chắn, nó vẫn được đăng ở TTTB trước). J.Leiba đã đưa bài thơ này từ Phụ Nữ Thời Đàm năm 1938 lên Ngọ Báo với 4 câu thơ đề tặng T.TKh. Chứng tỏ, bài thơ đã có sự copy từ một nguồn chính mà nguồn đó phải từ nơi tác giả đó làm ra, có lợi cho tờ báo mà tác giả cộng tác. Để chấm dứt vai trò ốc mượn hồn suốt thời gian dài 3 năm, Nguyễn Bính phải dùng "Tá thi hoàn hồn" (mượn xác hoàn hồn) cùng Trần Huyền Trân một lần cuối ra "Bài thơ cuối cùng" ra vẻ giận dữ trách móc người ráo bán tình yêu để T.T.Kh kiếm cớ rút lui, đăng trên TTTB số 217, thứ bảy ngày 23/07/1938 như ném “lựu đạn cay”, tung hỏa mù rồi… biến!

T.T.Kh không còn xuất hiện nữa vì hết nguồn nhiên liệu. Chúng ta cũng thấy rằng ngay đầu đề bài thơ “Bài thơ thứ nhất, Bài thơ cuối cùng” lấy lệ cho có là với từ ngữ là số đếm chứ không như đầu đề "Hai sắc hoa Ti-Gôn" mà Thâm Tâm đã ẩn dụ rất sâu sắc. Ngay cả những bài ký Thâm Tâm như "Các anh", "Dang dở"... Nếu TT làm, TT không thể lấy những cái tên tầm thường như vậy về hình thức và TT không thể lập lại nội dung nhạt nhẽo dần khi tim mình đầy ấp sóng hoàng hôn!

Từ khi có thơ từ T.T.Kh, độc giả càng gởi thư tới tấp về tòa soạn để mong "văn kỳ thanh" cũng đồng "kỳ hình" T.T.Kh và xin chữ ký Thanh Châu. Thanh Châu mang tâm trạng người viết văn được độc giả ái mộ thì vô cùng sung sướng. Thanh Châu hoàn toàn không biết về T.T.Kh và tổ hợp này nên đã viết hồi ức "Những cánh hoa tim" vào mùa thu 1939 đăng trên TTTB nói rõ lý do tại sao mình viết truyện "Hoa Ti-Gôn".

Không thể trốn tránh độc giả hoài vì tòa soạn nào không biết địa chỉ tác giả nếu tác giả đó gởi theo đường bưu điện và càng không thể im hơi nếu tác giả gởi trực tiếp hoặc nhờ cô gái mang thơ tới, nên tổ hợp thơ lại "chữa lửa" bằng cách đẩy bút hiệu Thâm Tâm lên thi đàn. Chuyện tình của Tuấn Trình và cô Khánh đã có nhiều người biết, không thể để cho nhân vật chính than thở hoài mà chàng trong cuộc cứ làm "con rùa rút đầu". Thêm vào đó, những người biết chuyện tình trên cứ nghĩ Tuấn Trình đã làm "Màu máu Ti-Gôn" công khai nhận T.T.Kh là người yêu nên càng cười chọc, thương tâm, đả kích. Tuấn Trình, bây giờ mang bút hiệu Thâm Tâm với Chào Hương Sơn, Mơ thuở thanh bình, Hoa gạo, Vạn lý trường thành, Ngược gió, Tống biệt hành…  năm 1940,  người trong cuộc, kẻ đã "lỡ leo lưng cọp" không thể không khỏi bực mình. Bài "Các anh" của tổ hợp Đinh Hùng - Trần Huyền Trân - Nguyễn Bính mỗi người một phong cách, một thi pháp trong bài thơ dài 64 câu lập tức nối gót "Dòng dư lệ" ra đời vào thứ bảy, ngày 4/5/1940 số 307 trên TTTB mang nội dung bực mình của Thâm Tâm để cho số báo ăn khách được tiếp tục sống. Nếu TT là tác giả, TT chẳng thể nào vừa tung tin tình yêu Khánh lên báo rồi làm thơ bắt mình "im đi" được. Bài thơ này còn có những cái tên gọi tầm thường như "Trả lời của người yêu" hay "Gởi T.T.Kh" mà lại còn có những câu "Hãy im đi các anh ơi!" lộn xộn bên trong. Nó được đăng nguyên hay cắt ra hai phần như sách Mã Giang Lân hoặc Thế Nhật hay không trên TTTB? MGL trong bài “Ghi chú thêm về Thâm Tâm và T.T.Kh” từng khẳng định có nhưng đoạn ngoài cuốn “Thơ Thâm Tâm”, (Nxb VH – 1988) do MGL tuyển chọn và sách “Lược sử văn nghệ - Nhà văn tiền chiến 1930-1945” (Nxb Vàng Son SG - 1974) và “T.T.KH. Nàng là ai? (Nxb VHTT – 1994, 2001) của Thế Nhật lại có những câu lục bát phá cách từ Nguyễn Bính nối tiếp lục bát phá cách trong bài “Các anh” 16 câu trong sách MGL. Điều này cho thấy bài “Các anh” phải nguyên vẹn 64 câu chứ không phải 54 câu như Thế Nhật và 16 câu như MGL trích.

Thế nhưng, rừng đốn mãi cũng hết cây, đất lấn mãi cũng hết biển, năng lượng từ nội dung chuyện tình T.T.Kh cũng chẳng được tiếp nhiên liệu nên những bài thơ sau ký T.T.Kh hay Thâm Tâm đều "đầu voi đuôi chuột". Mâu thuẫn từ các bài thơ ngày càng lộ diện khiến cho tổ hợp thơ cũng phải nghĩ tới "Tẩu vi thượng sách" bằng cách "thêm bếp, rút quân". Bài "Dang dở" thể thất ngôn với thi pháp đặc biệt (vần trùng 2-3) chỉ có với Đinh Hùng đã được "thêm bếp" đưa lên TTTB năm 1940 để tổ hợp thơ Thâm Tâm "rút quân". Đây là phát pháo cuối cùng báo hiệu cuộc chơi chấm dứt! Không ai ăn mãi một món ăn cũng như chẳng ai đọc mãi một đề tài chỉ có mấy bài thơ xáo đi, xào lại.

Điều này, hợp lý khi chúng ta rãi các bài thơ được chia thời gian như sau: Hai sắc hoa Ti-Gôn (1937), Màu máu Ti-Gôn (1937-38), Bài thơ thứ nhất (1937), Đan áo cho chồng (1938), Bài thơ cuối cùng (1938), Các anh (1940), Dang dở (1940). Chúng được xen kẻ với bài hồi ức của Thanh Châu “Những cánh hoa tim” năm 1939, “Dòng dư lệ” của Nguyễn Bính tạo thành một chuỗi “ăn chắc, mặc bền”, có đầu, có giữa, có cuối trên báo chí. Nếu không, ta sẽ cứ thắc mắc vì sao T.T.Kh làm thơ năm 1937-1938 mà tới năm 1940, Thâm Tâm mới nhập cuộc?

Khói lửa chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) đang phủ vây đất nước Việt Nam “một cổ hai tròng” bằng nạn ngoại xâm nối tiếp ngoại xâm khi phát xít Nhật hất cẵng thực dân Pháp. Thi đàn thơ văn, báo chí đã không còn là mảnh đất bình yên chim hót cho các nhà thơ dụng thơ mà họ phải chuyển sang nhà thơ "dụng võ". Tống biệt hành của Thâm Tâm làm tại vườn Thanh Giám để đưa tiễn người và đưa tiễn lòng cũng chấm dứt luôn một cuộc tình mà Đinh Hùng coi rẻ rúng mối tình nàng kiều nữanh thanh niên định ra đi cứu nước trong "Dang dở".

Hoài Thanh - Hoài Chân trong "Thi nhân Việt Nam" dè dặt với Thâm Tâm và không mấy rõ ràng khi viết về T.T.Kh năm 1941. Phạm Thanh trong “Thi nhân Việt Nam hiện đại” quay về một mối T.T.Kh là người phụ nữ cũng chẳng hé mở được điều gì hấp dẫn hơn.

Về sau, không muốn nhắc lại chuyện cũ và tất cả bài thơ liên quan tới một chuyện tình không hay, TT im lặng để “làm lại cuộc đời” như Nguyễn Hữu Đảng, Vũ Cao đã kể trong “Giai thoại văn học" (Nxb VH - 2003). Năm 1944, TT lập gia đình với Phạm Thị An và sinh ra hai người con. Người con đầu đã mất từ năm 1945. Người con trai duy nhất còn lại là Nguyễn Tuấn Khoa sinh ngày 24/11/1946. Bốn năm sau, TT  mang Huyền thoại T.T.Kh xuống tuyền đài năm 1950 trong một lần đi chiến dịch ở biên giới Việt Bắc tại Cao Bằng vì cơn bệnh sốt rét ác tính. Bản Pò Noa (Cao Bằng) còn bia mộ tưởng niệm nhà thơ Vệ quốc quân tài hoa này.

Trong thời gian kháng chiến 1947 – 1950 và sau 1954 nhiều người như Bùi Viết Tân, Nguyễn Tố, Hồ Thông, Ngân Giang, Thạch Hồ, Anh Đào (Đào Tiến Đạt), Giang Tử, Trần Quân (Trần Viết Phương), Đỗ Nhân Tâm, Lê Công Tâm, Hoàng Tấn, Tân Đạt Dân… trên các báo “Cải tiến, Giáo dục phổ thông, Văn nghệ thành phố HCM, Văn nghệ tiền phong, Nhân loại, Sống, Triền sóng xanh, Chuông Mây… " đã tạo ra luồng thông tin “ông nói gà, bà nói vịt” về hai bút hiệu này. Những người cho biết T.T.Kh là Thâm Tâm có thể đúng một chút ít nếu trong lúc ngà say, Thâm Tâm có hé lộ mình là T.T.Kh. Không có gì giấu được thời gian. Giấy không gói được lửa. Cây kim trong áo lâu ngày cũng lòi ra. Khi say, không ai có thể làm chủ bản thân. Người say là người thường hay nói và khi đã nói thì thường nói thật. Nhưng không biết, sau chuyện tình 1936, TT ngoài đời có “say mèm” rồi “ném chén cười cho đã mắt ta” như trong thơ hay không?

Những người nghe loáng thoáng Thâm Tâm nhận mình là T.T.Kh có thể nhập lại những bài thơ ký T.T.Kh là Thâm Tâm. Những bài ký Thâm Tâm, họ tưởng rằng đã rõ. "Khói" “Cá tháng 4” đã xuất hiện từ bèo bới ra bọ, từ cái nọ, lò ra cái kia không phải là không có “lửa” từ Thâm Tâm hay nhóm tổ hợp thơ. Trách nhiệm này, Thâm Tâm và tổ hợp thơ phải gánh lấy một phần bởi sự im lặng của mình Im lặng là đồng lõa tội lỗi. Rừng văn chương hỗn tạp nhưng vườn văn học chân chính chẳng phải là tấm thảm để người ta chà giày bẩn vào đấy!

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, hòa bình về trên đất Bắc. Người làm văn học từ bỏ vũ khí quay về với mảnh đất thơ văn của mình. Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Đức Trọng viết “Việt Nam thi nhân tiền chiến” năm 1968 có tuyển thơ Thâm Tâm và T.T.Kh “bài bản” và công phu hơn HT – HC. Thế nhưng hai ông vẫn cho rằng hai bút hiệu là hai người Thâm Tâm và T.T.Kh. Nguyễn Vỹ viết lại mục "Thâm Tâm và sự thật về T.T.Kh" trong "Văn thi sĩ tiền chiến năm" (1970) khẳng định chỉ có Thâm Tâm làm cả hai bút hiệu. Những người khác như Mã Giang Lân tuyển “Thơ Thâm Tâm” năm 1988, Hoài Việt “Thâm Tâm và T.T.Kh” năm 1991, Thế Nhật “T.T.KH. nàng là ai?” năm 1994 và 2001, Nguyễn Thạch Kiên“Về những kỷ niệm quê hương” năm 1996… đều thu nhập thông tin Thâm Tâm và T.T.Kh qua nguồn TTTB cũng nhập nhằng, không thống nhất trong sách mình. Người bác bỏ "Đan áo cho chồng - Bài thơ đan áo" của T.T.Kh; kẻ khẳng định chính Thâm Tâm. Những cuốn sách này, không ghi “nguồn tư liệu gốc”. Đó là sự thiếu sót về tính khoa học văn bản.

Riêng 2 cuốn “T.T.KH nàng là ai?” của Thế Nhật (1994 – 2001) và “Giải mã nghi án văn học T.T.Kh” của Trần Đình Thu (2007) đều quy về một nhân vật ở Pháp là Vân Nương Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh. Thanh Châu được “chỉ định” là người yêu của T.T.Kh. Kết quả, nhân vật Thanh Châu là nhà văn và nhân vật Vân Chung lấy chồng năm 1939 không ăn nhập gì đến vụ “bán thơ anh” và T.T.Kh đã chồng năm (theo nội dung bài thơ làm năm 1937) đã hồi ức về những mùa thu trước 1936… không phải là nhân vật trong cuộc. Nguyễn Thạch Kiên là bạn lâu năm của Trần Thị Vân Nương, ông đã khẳng định Vân Nương làm thơ sau hậu chiến là chính xác và người viết đồng ý như vậy khi thử tìm thi pháp của Vân Nương qua một số thơ của bà.

Về pháp lý, hai cuốn sách “T.T.KH. nàng là ai” và “Giải mã nghi án văn học T.T.Kh” này vi phạm quyền nhân thân của Vân Nương theo điều 38 trong Bộ Luật Dân Sự khi nhân vật này phản kháng bằng ba lá thư đăng trên báo Ngườiviệt - Cali năm 1994 (thanhnien.com và hai cuốn sách Thế Nhật và Trần Đình Thu đều trích đăng). Bà Vân Chung có quyền phản kháng theo điều 25 và 37 trong bộ luật này. Cuốn sách Trần Đình Thu đã hầu như “đạo ý tưởng” và “đạo hình thức” từ sách Thế Nhật trừ hai phần sau cùng. Thế nhưng, đối với những "đạo văn" cũng có những trăm vạn đường, nghìn phương cách, cuốn "Giải mã nghi án văn học T.T.Kh" của Trần Đình Thu chỉ vào hàng "cháu chắt" của sự đạo văn. Nó chưa đáng mức phải quy trách nhiệm hình sự mà chỉ ở hình thức "cảnh tỉnh" người nghiên cứu nên thận trọng khi tham khảo nguồn tư liệu và cẩn thận khi phát ngôn thành văn bản. Nếu một khi có sai lầm, không phải "một lần đạp... c, một lần chặt chân", chúng ta còn có cơ hội sửa chữa. Thời gian và lòng hướng thiện sẽ cho chúng ta cơ hội này.

Hỏi về nguồn "Tiểu Thuyết Thứ Bảy", Mã Giang Lân trả lời chính ông đã đọc TTTB sau năm 1975 và chép tay lại một số bài thơ ký Thâm Tâm. Những bài thơ khác, ông thấy dở nên không chép.

Nguồn TTTB, chú Nguyễn Tuấn Khoa nói rằng sau 1975, TTTB được đưa lên màn hình, một số người được đọc từ đó. Chú Khoa cũng khẳng định đã cung cấp cho MGL một số bài thơ của bố là Thâm Tâm.

Chú Thế Phong (Thế Nhật gồm Thế Phong và Trần Nhật Thu) trả lời là đã đọc TTTB trên “Thư viện Khoa xã hội (34 Lý Tự Trọng, Quận 1) và Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM".

Hỏi về những lá thư phản đối của Vân Nương, chú Thế Phong trả lời: Đăng trên báo nguoiviet, Cali ngày 24/12/1994. Đại diện Ban Biên Tập báo Người Việt - Cali (Đỗ Bảo Anh chủ bút, Phan Huy Đạt chủ nhiệm) trả lời rằng, thời gian lâu lắm, không ai có thể nhớ và người muốn tìm nên tới tòa soạn sao lục chứ họ không làm công việc này.

Ông Phan Đức trong bài “T.T.KH là ai? Cuốn sách viết ra từ sự ngộ nhận” (TĐT, sđd tr 179) cung cấp thêm lá thư Vân Chung đăng trên “Nguyệt San Văn Hóa” số 9/4 bên Pháp.

Trần Đình Thu trả lời về thư phản đối của Vân Nương, anh đọc ở trên mạng. Khi được hỏi về địa chỉ liên lạc với bà Thư Linh về Vân Nương, TĐT trả lời: Lâu lắm rồi, anh không liên lạc với bà ấy.

Về ông Nguyễn Thạch Kiên (hỏi về tư liệu trong sách “Về những kỷ niệm quê hương” T.T.Kh và xin địa chỉ liên lạc với bà Trần Thị Vân Chung là bạn ông), người viết đã liên lạc các hiệu sách ở Cali như Thiên Nga, Trí Đức (nơi người viết mua sách) nhưng chẳng nơi nào còn giữ số điện thoại của ông. Nay, chắc ông cũng đã trên 86 rồi! Các địa chỉ liên lạc trong những cuốn sách có liên can về ông như “Văn học thời nay” của Vũ Hoài Mỹ, người viết cũng đã liên lạc trên 4 e-mail ghi trong sách và nhờ cả chủ bút nguyệt san “ChicagoViệtBáo” là Thủy Lâm Synh hỏi dùm nhưng chưa được hồi âm.

Về phần liên lạc với thầy Mã Giang Lân và chú Nguyễn Tuấn Khoa, do Văn Giá (Phó Gs. TS, trường Đại học Văn Hóa - HN) cung cấp số điện thoại.

Nguyễn Tuấn Khoa (Nguyên Viện trưởng Viện Thông Tin Y học Trung Ương) lập gia đình cùng Nguyễn Ngọc Mỹ (Nguyên cán bộ Trường Đại học Dược Hà Nội). Họ có hai người con đã lập gia đình: Nguyễn Tuấn Huy và Nguyễn Mỹ Trang. Hai bố con Tuấn Khoa và Ngọc Mỹ phần nào nối nghiệp bố, ông nội là Thâm Tâm Nguyễn Tuấn Trình trên con đường văn học. Về thông tin năm Thâm Tâm lập gia đình, chú Khoa nói rằng: "Cụ bà đã lấy Cụ ông từ đầu 1944, năm sau đã có con, tôi là con thứ, sinh 24-11-1946".

     1. Di bút của Thâm Tâm: Người viết copy từ khanhly.net với thắc mắc không biết có phải là di bút của Thâm Tâm hay không? Nguồn nào cung cấp di bút này cho cô HUVO đăng tải trên mạng? Trả lời thắc mắc này, chú Nguyễn Tuấn Khoa xác định: "Di bút đúng của Cụ tôi, chữ ký cũng đúng". Nguồn? Chú Khoa trả lời: "Nhà tôi không có di bút này. Di bút trên là của Hồng Tranh đưa cho Thanh Châu". Hồng Tranh là người mà Thâm Tâm đã gởi bức thư nên ông lấy bức thư này đưa cho Thanh Châu với lý do gì thì chẳng ai biết. Mạng khanhly.net có đăng mà chưa thấy ghi chú từ đâu?

      2. Mục đích đăng thủ bút của Vân Chung: Cho những ai từng nói là đọc qua những bài thơ bằng đường thư tay, bưu điện, những ai từng nói có coi qua lá thư xin chữ ký Thanh Châu của T.T.Kh nhận ra có phải nét chữ “run run” này?

      3. Nguồn cần tra cứu thêm là: Phạm Minh Chi (cháu ruột bà Vân Chung, ở 333/14/8 Lê Văn Sỹ, quận Tân Bình (từ bài viết của Phan Đức) hỏi về bà hay liên lạc với bà Vân Chung.

       4. Nguồn TTTB? Tại sao cùng một nguồn, mà các bài viết đăng trích Thơ Thâm Tâm, thơ ký Thâm Tâm và T.T.Kh lại không thống nhất? Nguồn "Thư viện Khoa xã hội (34 Lý Tự Trọng, Quận 1) và Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM" tồn tại nhưng chưa biết TTTB được lưu trử như thế nào?

Huyền thoại hoa Ti-Gôn tóm tắt đến đây xin tạm dừng. Người viết một lần nữa chân thành cám ơn gia đình chú Tuấn Khoa cung cấp thông tin cá nhân và hình gia đình, cám ơn tác giả các cuốn sách liên quan được trích đăng, những tác giả có thơ, truyện, bài được sử dụng cũng như các web site đã góp phần tạo ra chuyên đề “Huyền thoại hoa Ti-Gôn”./.

   
Tháng 12/14/2008
Ngọc Thiên Hoa

Phần tóm lược này nằm ngoài cuốn "Huyền thoại hoa Ti-Gôn".

1. Phần 1 - 1
2. 2
3. 3
4. 4
5. 5
6. 6
7. 7
8. 8
9. 9
10. Phần 2 - 1
11. 2
12. 3
13. 4
14. 5
15. PHẦN TÓM LƯỢC

Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

Nhà phù thủy hô sóng vào lòng và gọi hoàng hôn lên mắt - Thiên Tướng (Vũ Bằng)

Nào ai có ngờ đâu buổi tiễn đưa hôm ấy lại thành ra thiên thu vĩnh biệt.
Hồi đó, thường thường buổi tối chúng tôi vẫn ngồi uống rượu với nhau, nhắm khoai tây thái mỏng ở nhà Thủy Tạ Bờ Hồ.
Chúng tôi là lớp văn trẻ ở Hà thành, làm mấy tờ Trung Bắc Chủ Nhật, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Ích Hữu, Bắc Hà. Chúng tôi là Nguyễn Dân Giám, Trần Huyền Trân, Thượng Sỹ, Thanh Châu, Ngọc Giao, Nguyễn Trẩm Dự, Nguyễn Tuân, Nguyễn Khánh Đàm, Hiên Chy, Vũ Bằng… Chúng tôi gồm độ chừng mười đứa, sống bừa bãi, lãng mạn, thích văn nghệ hơn ăn, thích chơi đùa hơn sự nghiệp, mai đói không cần nhưng hôm nay có bao nhiêu thì gom lại ăn cho kỳ hết, uống cho kỳ hết, hút cho kỳ hết. Thâm Tâm là một “hội viên” của hội ái hữu do chúng tôi lập nên có vẻ siêng năng nhất, trung thành nhất.
Nghĩa là bất cứ hôm nào nhậu nhẹt, phiện phò cũng có mặt anh.
Đêm ấy, ngồi ở nhà Thủy Tạ, chúng tôi uống rất nhiều “punsô” – tức là một thứ cốc tai có rum, đường, chanh, hâm nóng lên để uống như kiểu uống rượu của anh hùng Lương Sơn Bạc trong Thủy hử. Đến khuya, gió lạnh, anh nào anh nấy say mèm. Thâm Tâm giơ tay lên mời anh em “cạn một hơi” rồi nói:
- Còn đêm nay nữa, mai đi. Bữa rượu này là bữa rượu tạm biệt anh em đấy ạ.
Rồi anh đứng lên, rút tay ở áo choàng ra, huơ lên trời như người múa kiếm trong kịch thơ Bóng giai nhân, ngâm mấy câu bi hùng:
Thế kỷ hai mươi
Đã chết cả loài dơi,
Bay sờ soạng trong hoàng hôn tàn tạ,
Ta nghe hát trong trời xanh, trên hoa lá
Trong tâm tư một khúc hát tinh khôi.
Thế kỷ hai mươi,
Ngươi mang trong lòng ngươi
Bao nhiêu mầm ung độc
Bao nhiêu nụ hồng đời,
Đau thương thế kỷ đà khô cháy
Hoa nở, mùa gây lại giống người.
Những lúc rượu vào, Thâm Tâm hay ngâm như thế. Cho là không lạ, tôi cũng chẳng lưu ý làm gì, không ngờ đến chiều hôm sau thì Thâm Tâm đi thật và đi mãi mãi. Từ lâu, tôi vẫn biết một số lớn anh em Tiểu Thuyết Thứ Bảy vẫn tích cực hoạt động ngầm diệt Nhật và chống Pháp, ngoài mặt thì viết văn bán chữ, nhưng trong thì dâng cả tâm hồn lẫn thể xác cho kháng chiến. Trong các bạn đó, tôi nhớ có Bùi Hiển, Lý Văn Sâm, Nguyễn Tất Thứ, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân… nhưng nghĩ rằng có một lúc nào đó Thâm Tâm bỏ hẳn thành, ra bưng, thì quả không ngờ. Tôi có thể quan niệm một Thâm Tâm ngồi ở trong thành hoạt động bí mật, tôi có thể nghĩ đến một Thâm Tâm đi “làm việc ở xa” một đôi tháng lại về… nhưng đi hẳn… thật quả tôi không ngờ, vì nói riêng về vấn đề gia đình, cái gánh của anh mang ở trên vai thật nặng: cha mẹ già, lại thêm ba bốn em, vừa trai vừa gái – mà nhà thì ở thuê, ngoài việc viết mướn của anh ra, cả nhà chỉ còn trông vào việc nhận các sách in của nhà Mai Lĩnh để đóng với một giá tiền công gầy guộc.
Lúc ấy, Thâm Tâm ở nhà Diêm. Cả một gia đình bảy tám người sống chen chúc trong một căn nhà chừng độ hai chục thước vuông, người nào người nấy trông buồn và xanh như thiếu máu. Thường thường, chúng tôi đến thăm thì không có ghế ngồi, anh em phải đứng, vì thế thấy bạn đến thì việc thứ nhất của Thâm Tâm là vơ vội lấy quần áo mặc vào để đi, bất cứ đi đâu cũng được, miễn là đừng có ở nhà.
Về sau này, lúc Nhật sắp đánh Pháp, anh lấy vợ, tính nết vẫn giữ nguyên như thế không thay đổi. Riêng tôi nghĩ thì cái gánh gia đình anh như thế, lại thêm một người vợ mới lấy về, dù sao cũng có một sức khả dĩ kìm anh lại, nhưng hết thảy chúng tôi đều lầm: Thâm Tâm, nhà văn sĩ kiêm thi sĩ, kiêm họa sĩ bé nhỏ đó “lì” và “kín” không thể nào tưởng được. Anh ta đã quyết định điều gì thì không bàn bạc với ai hết, cứ lừ lừ hành động một mình, tuy là vẫn bàn bạc công việc ngắn hạn, dài hạn với anh em để cùng làm, nhưng lát nữa thì bỏ cả đó mà đi luôn và không bao giờ buồn ngó lại.
Từ lúc chia tay nhau ở nhà Thủy Tạ cho đến lúc có tin mất ở bên kia sông Đuống, Thâm Tâm không hề gửi về cho anh em một chữ nào. Thanh Châu, khi ký kết xong Hiệp định Genève, còn biên cho tôi lại ba dòng chữ mến thương, Nguyễn Khánh Đàm còn gửi thư hỏi thăm về rượu, Phùng Bảo Thạch còn khuyên can, Tô Hoài viết thư sáu trang to “tổ bố”, chữ nhỏ li ti như con kiến giải thích tại sao không nên vào Nam với “đế quốc” và “thực dân”, và nhiều bạn khác như Nguyên Hồng, Trần Mai… lại còn sôi máu lên và không tiếc lời mạt sát… Duy chỉ có Thâm Tâm chẳng chửi mắng cũng chẳng thương, cứ ngậm miệng lại như con hến.
Thành thử trong suốt thời gian kháng chiến, tôi không biết tin tức gì về Thâm Tâm. Đến khi anh mất, tôi mới biết là sau khi ở Phú Thọ anh về khu Ba một dạo và vẫn làm văn nghệ, nhưng gia đình anh bây giờ ở đâu, còn bao nhiêu người sống, đã bao nhiêu người chết, người vợ cưới ngày kháng chiến, bây giờ ra thế nào và có cháu nào hay chưa, tuyệt nhiên chẳng có người nào ở đây biết cả.
Ốm đau sầu ít kẻ nâng niu
Cái tin đầu tiên báo Thâm Tâm đã qua đời ở bên kia sông Đuống, lúc tôi còn ở Hà Nội, cho biết anh đã bị bom của thực dân(1). Thôi thì ở trong thời chiến tranh chết vì bom, chết vì bệnh, chết tan xác, chết cháy ra than, chết dưới gầm cầu hay chết trên giường bịnh, chết gì cũng chỉ là chết mà thôi; nhưng riêng trường hợp của Thâm Tâm, tôi không ngờ anh lại sống được đến gần ngày ký Hiệp định Genève. Là vì ngay từ lúc “thiên hạ thái bình”, Nhật chưa tới, Thâm Tâm đã ốm yếu, gầy còm, mang đủ các thứ bịnh trong người. Anh thấp và nhỏ, da xanh mướt, thúng thắng ho luôn. Một vài người nói trắng trợn là anh bị bệnh lao. Riêng tôi không nói ra, nhưng nếu anh có mắc bệnh ấy cũng không có gì lạ, bởi vì Thâm Tâm chẳng khác chi Vũ Trọng Phụng, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc – mà có khi còn khổ hơn Vũ Trọng Phụng chỉ phải nuôi bà và mẹ, chớ Thâm Tâm thì phải lo tới bảy tám người trong gia đình.
Mặc dầu không nói ra, anh em đều biết Thâm Tâm không đủ sống tuy là ông cu, bà cụ và em trai, em gái anh đóng sách, xếp sách tối ngày. Có khi không đủ ăn, thuốc không có uống, nhưng anh không bao giờ phàn nàn than thở với anh em, mỗi khi lĩnh lương Tiểu Thuyết Thứ Bảy hay bán được cuốn sách nào cho Phổ Thông Bán Nguyệt San, Truyền Bá, anh vẫn “le” làm như công tử con nhà giàu, mời anh em đi nhà hàng nhậu nhẹt, có khi đến hết một phần ba phần tư số tiền.
Hình như chỉ có những lúc như thế thì Thâm Tâm thoải mái và phởn phơ trong bụng. Rượu vào độ mươi ly, anh hoàn toàn là một người khác lạ, không âu sầu rầu rĩ nữa, trái lại, hoạt bát, vui vẻ, nói đâu ra đấy và thơ thẩn những khi ấy không biết ở đâu cứ tuôn ra ròng ròng. Tôi không biết các nhà thơ, nhà văn xưa bảy bước nên thơ thì làm ăn thế nào, chứ quả Thâm Tâm lúc say làm thơ rất lẹ. Anh xin một mảnh giấy của nhà hàng, mượn cây viết, vừa uống rượu vừa làm, rồi quăng ra bàn để cho người khác ngâm lên; trong khi ấy anh lại tiếp tục uống, uống đến say mèm ra không còn biết trời đất là gì nữa.
Có một năm, làm xong số Tết Tiểu Thuyết Thứ Bảy rồi, anh em dắt nhau lên “Phở Cháy” phố Hàng Buồm ăn tất niên. Thâm Tâm say quá, ôm lấy Nguyễn Dân Giám ngâm thơ rồi cả hai cùng khóc hu hu lên như hai đứa trẻ. Tôi không hiểu tại sao lại có thể có những chuyện lạ lùng như thế, nhưng tôi yên trí lần ấy cả Nguyễn Dân Giám, tác giả Dưới rặng thông và Thâm Tâm cùng chết, không thể nào sống nổi vì cả hai cùng say đến điên lên, chạy ra giữa đường, đón xe điện lại; xe điện không ngừng, cả hai nhảy cả lên rồi chui vào dưới gầm ghế nằm ngủ, sau anh em phải vực xuống đưa về nhà.
Như trên kia đã nói, Thâm Tâm ốm yếu bịnh tật, nhưng không có một thứ dật lạc nào anh không ham: cô đầu, thuốc phiện, rượu, thuốc lào, thuốc lá... duy chỉ có cờ bạc là không mấy thích. Có lẽ tại vì anh không có tiền, chớ nếu có rủng rỉnh tiền trong túi, nhiều phần chắc chắn là anh cũng ham luôn.
Sống một cuộc đời xô bồ, liều lĩnh, “văng tê” như thế, có người hỏi “thế thì còn thì giờ đâu mà viết?”.
Quả Thâm Tâm là một người muốn tự tử mà chính anh không tự biết: say rượu, say thuốc sáng đêm, bốn năm giờ sáng anh lò dò về ngủ cho đến khi nào thức; thức mà không có anh em đến rủ rê thì cắm đầu cắm cổ viết, viết cả ngày rồi lại chong một ngọn đèn dầu lên viết cả đêm, viết quên chết, hay nói một cách khác, viết chết thôi, viết không đọc lại bao giờ cả. Thơ cũng vậy, tiểu thuyết cũng vậy. Chữ anh nghiêng, nét gầy guộc, trông rõ ràng chớ không lèm nhèm, nguệch ngoạc như đa số các nhà văn khác. Đặc biệt là có truyện anh viết một mạch từ đầu chí cuối không xóa, sửa một chữ nào. Thường thường, thơ có sửa vài ba chữ. Nhưng viết tiểu thuyết thì anh thấy khó khăn lúc bắt đầu; viết không được mấy dòng đầu thì xé bỏ chớ không sửa chữa; được đoạn đầu rồi thế là cứ vậy mà viết ra một mạch cho đến lúc ký cái tên Thâm Tâm uốn éo vào cuối, sau khi đã vẽ lên chữ ký đó hai ngôi sao trên hai chữ a để thay cho dấu ớ (^).
Tại sao ký là Thâm Tâm, lại có chỗ ký là Tuấn Trình?
Tôi không có dịp nào hỏi tại sao tên là Nguyễn Tuấn Trình anh lại ký bút hiệu là Thâm Tâm. Có điển nào không? Ai đặt cho anh tên ấy? Bí mật ấy, Thâm Tâm mang theo với anh lúc từ biệt cõi đời.
Tôi chỉ biết một điều chắc chắn là từ lúc bắt đầu viết bài truyện thứ nhất đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy, rồi qua Truyền Bá, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Ích Hữu, Bắc Hà, Thâm Tâm không hề tự mình ký là Tuấn Trình. Thế thì tại sao trong Tiểu Thuyết Thứ Bảy lại có truyện ký tên Tuấn Trình? Nguyên do là tại Thâm Tâm viết nhanh mà viết nhiều: viết thơ, viết kịch ngắn, viết tiểu thuyết dài, viết truyện. Có khi anh đưa cho nhà báo cả một tập năm sáu truyện.
Lúc ấy, ông Vũ Đình Long làm chủ nhiệm báo, bận nhiều công việc, trao hết cả phần tòa soạn cho tôi. Theo lẽ thì mỗi kỳ nên chọn của mỗi nhà văn một truyện để cho tờ báo súc tích và mới lạ luôn luôn, nhưng vì tôi biết Thâm Tâm cần tiền hơn các anh em khác nên thỉnh thoảng tôi chọn đăng trong một số, hai bài của Thâm Tâm: hoặc một “truyện ngắn”, một “truyện có thực”, hoặc một “truyện ngắn” và một “kịch ngắn”, và sợ rằng ký cùng một tên Thâm Tâm trong một số báo thì  nhàm, tôi đã tự ý sửa cái tên “Thâm Tâm” ra làm “Tuấn Trình” trong một vài ba truyện ngắn hay kịch ngắn.
Giá phải một nhà văn khác thì thế nào cũng hỏi tôi về việc đó, hoặc phàn nàn sao không tham khảo ý kiến trước khi ký là “Tuấn Trình”, nhưng Thâm Tâm thì tuyệt nhiên không bao giờ hỏi cả. Về công việc nhà báo, anh cũng chẳng hỏi “Báo dạo này chạy không?” hay “Lâm Mỹ Hoàng Ba, Lý Văn Sâm, Bùi Hiển, Phan Du viết như thế thì tiền nong ra thế nào?”. Không, Thâm Tâm không hỏi gì hết. Tôi chỉ nhớ thỉnh thoảng anh hỏi tôi: “Có thiếu thơ không?”, và một lần nữa anh hỏi: “Bài truyện viết về nhà văn hết thời, chán đời muốn tự tử, ký tên là Thiên Tướngcó phải là của anh không?”. Tất cả về công việc nhà báo, anh chỉ hỏi như thế, ngoài ra gặp nhau là chỉ nói chuyện chơi bời chè rượu, chớ không đả động gì đến văn nghệ hay lý tưởng gì hết, không nói đến đường lối, chánh sách hay chủ trương gì hết.
Những người ưa nói đến các vấn đề ấy là Nguyễn Duy Diễn, Thanh Châu, Từ Thạch, Nguyễn Tất Thứ, Trần Kim Dần, Thượng Sỹ…
Mà chính tôi, tôi cũng thích lừng khừng, “phờ lếch” như Thâm Tâm là vì tôi vẫn nghĩ rằng đời đã mệt quá rồi, viết lách khổ như chó (nguyên văn của Nguyễn Vỹ), được tí thì giờ rảnh mà lại không tán láo với nhau, cứ lên mặt ông cụ bàn cái này, tính cái kia thì chẳng nên sống làm gì cả. Chính Thâm Tâm có vẻ “ông cụ” hơn ai hết; nhưng thực ra thì tự thâm tâm anh có vẻ không coi cuộc đời có tính cách gì quan trọng hết: phải viết để kiếm tiền thì viết, chớ không phải viết ra là vì “một sứ mệnh thiêng liêng” gì cả, có khi thích quá, để trong lòng không nổi thì viết ra chớ cũng chẳng cần biết viết ra như thế có phải là giúp tay cho nền văn hóa dân tộc hay không, viết ra như thế có phải là bồi bổ cho nền văn nghệ đất nước không.
Con đường đi riêng biệt của Thâm Tâm
Tuy nhiên, đó chỉ là bề ngoài. Bên trong anh hoài bão gì, chủ trương gì, ít có ai hiểu nổi. Duy có một điều tôi biết chắc là dưới cái bề ngoài phóng túng “bất cần đời” ấy, tôi biết chắc là anh đã suy nghĩ, thiết tha nhiều về nghệ thuật, và ngay từ lúc mới bước vào làng văn, anh đã dò dẫm tìm được một con đường riêng biệt để đi và để tiến.
Lúc đó, nước ta sống trong một sự “thái bình giả tạo”. Mỗi ngày, Pháp thực dân mỗi đối xử với dân ta độc ác hơn, dân gian khổ sở khôn cùng, dù rằng lúc đó thế giới đã đến một khúc quanh lịch sử: Đức, Ý, Nhật liên minh mưu đánh thực dân và đế quốc.
Trước sự chuyển mình không thể tránh được của thế giới, phàm người nào có tâm hồn cũng vùng lên chống Pháp, hoặc tiêu cực hoặc tích cực. Do đó một số rất đông nhà ái quốc bị cầm tù, lưu đầy hay tàn sát. Các nhà văn, nhà báo muốn sống để làm tròn sứ mạng đành phải viết một cách tương đối kín đáo, khả dĩ che đậy những ý kiến mình muốn nêu ra dưới những hình thức hoặc vẩn vơ, hoặc lờ mờ, hoặc phóng túng. Điển hình cho những bài văn uất hận với chính thể lúc bấy giờ, mà phải viết bằng những lời lẽ ngoài mặt ôn hòa, Thâm Tâm đã cho ta đọc, về tiểu thuyết, những truyện ngắn như Con vờ đăng ở Tiểu Thuyết Thứ Bảy, có ý ám chỉ đến mưu toan thực dân nhằm diệt chủng Việt Nam, về kịch ngắn như Viễn ly không hứa hẹn về (mà tôi đành phải giữ lại không đăng vì sự sống còn của báo) và về thơ thì như bài Ngậm ngùi cố sự mà lúc bấy giờ ai cũng nhớ và ngâm luôn miệng mấy câu:
Cuối thu, mưa nát lòng dâu bể,
Ngày muộn, chuông đau chuyện đá vàng,
Chán ngán nhân tình, sầu ngất ngất,
Già teo thân thế hận mang mang…
Bây giờ, ngồi viết về Thâm Tâm, tôi có một điều tự thú: nếu tôi có lỗi với Thâm Tâm, và làm hại cho văn nghệ một khía cạnh nào, ấy là tôi đã giữ lại một số truyện ngắn, kịch ngắn của anh không cho đăng tải. Nguyên do, như trên kia đã nói, là sự sống còn của tờ báo; mặt khác, cũng tại vì những truyện và kịch ấy, đối với độc giả lúc bấy giờ tối nghĩa và khó làm cho người ta thưởng thức say sưa. Những kịch và truyện giữ lại đó, tôi giữ ở Hà Nội. Tất cả tội của tôi là không mang theo được vào đây và đó là cả một sự thiệt thòi cho văn nghệ tiền chiến vậy.
Theo chỗ biết của tôi, Thâm Tâm là một người có một cái tài đa diện: cũng như một người làm báo viết về mục gì cũng được, anh viết về đủ loại truyện và kịch: tâm lý xã hội, cổ tích, trào phúng, lịch sử, phong tục… Nhưng đặc điểm của Thâm Tâm là ngay từ lúc bước vào văn nghệ, anh đã biết chọn một con đường riêng biệt để đi: phục vụ một nền văn hóa dân tộc, kết cấu và giọng văn nhuộm màu sắc Đông phương, nhất là Tàu – không lai căng theo Pháp hay theo Mỹ như đa số nhà thơ lúc ấy, thí dụ Nguyễn Tuân (lúc bắt đầu viết văn) hay Xuân Diệu, Cù Huy Cận – mà cũng không bí quá, siêu phàm quá, nhức óc quá như Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử…
Nhiều nhà phê bình hồi đó cho rằng thơ Thâm Tâm làm rung động người ta như thơ Nguyễn Bính. Thực ra, làm thơ rung động như thế chỉ là một khía cạnh cái tài của Thâm Tâm để “chiều thị hiếu người đọc nhất thời”. Những bài thơ đứng đắn của Thâm Tâm đọc lên như thơ Đường vậy, gieo vần chọn chữ rất tài tình, đặc biệt là dùng ít chữ mà nói lên rất nhiều ý nghĩ và hình ảnh. Điển hình cho loại thơ này là bài Tống biệt hành mà các cụ già hồi đó cũng ưa ngâm và không tưởng được tác giả lại là một người mới trên dưới hai mươi lăm tuổi.
Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Ta biết người buồn chiều hôm trước,
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt.
… Ta biết người buồn sáng hôm nay,
Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay…
… Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say!
Bài thơ ấy anh em đều cho là hay, một phần vì biết tâm trạng của Thâm Tâm lúc bấy giờ.
Bấy giờ, Nhật đến Đông Dương gieo xáo trộn, đưa ra chủ trương Đại Đông Á nhưng bên trong thì mưu làm bá chủ Á châu, thi hành chế độ độc tài quân phiệt. Biết bao nhiêu nhà văn chống Pháp đã bị giam cầm chết chóc; đến khi Nhật tới, lại thêm biết bao nhiêu người khác bị tù đầy, hành hạ, chết oan chết uổng… Việt Minh nổi lên lúc đó quả đã là một ốc đảo trong vạn lý sa mạc của đời. Những bài như Vọng nhân hành của Thâm Tâm viết hồi 1941, Tống biệt hành viết năm 1940, Vạn lý trường thành, Tráng ca là những bài mà Thâm Tâm mới thực nói ra lời được những ý nghĩ và hoài bão tiềm tàng từ trước đến nay. Nhưng đặc biệt nhất là trong các bài thơ tình hay thơ yêu nước, Thâm Tâm vẫn giữ nguyên phong độ của một người trẻ tuổi mà chín chắn, say sưa nhưng không bậy bạ, ngả nghiêng mà vẫn đượm mùi Lý Đỗ trong thuật dùng chữ cũng như gợi ý.
Trong Một mảnh tình, Thâm Tâm viết:
Đôi lứa phương tâm, một mảnh tình,
Nhớ trăng, vàng mở vẹn gương trinh,
Chén sen ráo miệng, thề pha lụy;
Quạt trúc trao tay, ước lỗi hình.

Gió trái luống gào duyên cựu mộng,
Dây oan chi riết chí kim sinh,
Say ngùi, ta đốt tương tư thảo,
Bóng khói qua mây, lại nhớ mình…
Thì đến lúc anh lột xác, thơ vẫn hàm súc như thế, trầm trầm như thế, sâu xa nhưng không rầm rộ, làm cho người ta uất ức, phấn khởi nhưng uất ức mang mang chớ không bốc lên như lửa rơm trong một lúc, mà phấn khởi trong chữ Nhân chớ không phấn khởi trong đa sát và oán hận.
Nhà ta cầm đợ tay người,
Kép bông đâu áo, ngọt bùi đâu cơm?
Chông gai đổi dại làm khôn,
Ba vòng mòng sếu liệng tròn lại bay…
Bóng hoa chu giáp vần xoay,
Cánh vàng non nửa đời gầy tả tơi.
Chữ Nhân sáng rực sao trời,
Đường xe mở rộng chân người bước xa.
Theo tôi, bài Vạn lý trường thành gói ghém được hết cả cái quan niệm sống của Thâm Tâm và hoài bão của anh về mặt đường lối chính sách.
Vạn lý trường thành nói về Tần Thủy Hoàng xây thành dài vạn dặm, làm cho dân gian khổ ải, làm cho nhiều xóm thôn hết cả trai vì phải đi làm dân công, nhưng đi là chết, cũng như đi ra trận, đi không bao giờ về, để phục vụ một người, hay một bọn người ngồi trên đầu trên cổ người ta để xây dựng danh lợi cho riêng mình.
Hỡi ơi, huyết hãn triệu lê dân,
Chất lại ngoài biên một triệu lần
Xây trọn Trường thành muôn dặm vững,
Thì muôn trường hận đắp càng căm!
Ta hỏi: nghìn xưa đem máu xương,
Đắp Trường thành để vững ngai vàng
Nhà Tần cũng mất! Và sau đó
Vô dụng, thành kiên cũng đoạn trường.
Và cả Trung Hoa vỡ tựa bình,
Đến giờ Quốc Hận máu còn tanh.
Mà nguồn huyết lệ sao nhân loại,
Tưới mãi không ngừng vạn chiến tranh!
Thơ Thâm Tâm bàng bạc một vị thơ Đường; văn xuôi của anh – kịch ngắn, truyện ngắn – cũng nằm trong tinh thần đó. Người giữ ngựa, Thuốc mê, Thiếp trông chồng cũng đầy một hồn thơ cổ kính như thơ của anh, chữ dùng chọn lựa, văn pháp nhẹ nhàng bóng bảy, văn xuôi mà có những câu hay như một bài thơ, đại khái như trong truyện Thuốc mê tả lại cái cảnh thôn cũ xóm xưa, anh hạ một câu tả cảnh “Buồn teo vó ngựa cảnh khuya…”. Ít chữ mà buồn se sắt quá…
Thâm Tâm và kháng chiến
 Như trên kia đã nói, tôi biết Thâm Tâm là người có tâm hồn đã lâu, nhưng vì không có phương châm tranh đấu nên trong thời Pháp thuộc, anh em đành chịu sống một cuộc đời “lấy lệ”, mượn chè rượu giải khuây. Anh sống cực khổ lắm. Trước khi viết Tiểu Thuyết Thứ Bảy Thâm Tâm là một họa sĩ vẽ tranh cho báo, mỗi tháng lấy một số lương “hàn vi” của nhà Mai Lĩnh (lúc ấy xuất bản báo Tiểu Thuyết Thứ Ba) và in truyện vặt bán ba xu một cuốn (mà tôi có viết giúp mấy tập như Thằng Khởi, Hiếp dâm người chết…). Lúc ấy, anh là Tuấn Trình. Bút hiệu Thâm Tâm được sử dụng từ lúc anh bắt đầu viết Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Làm Tiểu Thuyết Thứ Bảy thực ra, không đủ sống. Lúc báo còn in nhỏ chưa phát triển mạnh, mỗi người một tháng bán được hai truyện là cùng. Anh em phải viết báo khác; riêng Thâm Tâm không tha thiết với vấn đề sinh kế mấy, có tiền thì đưa về cho gia đình nhưng không có thì ỳ ra mặc kệ; anh chủ trương “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ”, chứ cứ sống như “con lươn, chui rúc lấm đầu khổ lắm”.
Một người như anh, lớn lên và trưởng thành trong bất công xã hội, nhất định phải làm cách mạng, “chết thì chết chứ không thể cứ sống mãi thế này”; nhưng phải đợi đến lúc thời cơ thuận lợi, gặp bạn gặp bè mới có thể thực thi ý định. Bài Tống biệt hành, theo tôi biết, làm từ năm 1939, nhưng chỉ đọc cho bạn nghe thôi, đến 1940 mới đăng lên báo. Lúc làm bài này, Thâm Tâm bắt đầu theo kháng chiến… Trần Huyền Trân công tác ở thành. Tô Hoài vào hoạt động ở Nam, Nguyễn Bính ở Trung và Nam, Thâm Tâm cũng vào Nam một dạo… Lúc Việt Minh về Hà Nội, Thâm Tâm vẫn ở bưng thỉnh, thoảng tôi chỉ biết một vài tin về anh và các bạn cũ, tuyệt nhiên không có thư từ gì để lại.
Đến khi Pháp - Việt đánh nhau, anh em chạy ra hậu phương, tôi gặp nhiều bạn cũ ở Việt Bắc, khu Ba, khu Tư, nhưng không gặp Thâm Tâm một lần nào. Tôi không coi việc đó là lạ vì trong thời kỳ ấy, anh em có khi ở cùng một khu mà hàng năm không biết nhau ở đâu, nhưng có một điều tôi hay hỏi thăm bạn bè là tại sao trong khi Nam Cao, Nguyễn Tuân viết báo, in sách hay hoạt động văn nghệ dưới nhiều hình thức khác nhau, tôi không thấy Thâm Tâm đâu hết. Chẳng hiểu có làm văn nghệ nữa không? Chớ nếu vẫn làm văn nghệ thì ít ra tôi cũng phải nhận được một hai bài thơ gửi về thành, như Hoa Thu, hoặc không thế thì tôi cũng phải thấy một cái gì “hay hay” như Đôi mắt của Nam Cao gửi về qua ngả Pháp… Trong suốt thời kỳ kháng chiến, Thâm Tâm còn trước tác nữa không? Nếu trước tác thì viết được những bài thơ gì, tạo nên những cuốn tiểu thuyết gì? Đó là điều mà tất cả anh em đều muốn biết, nhưng chưa có dịp nào biết được.
Nói vậy mà thôi, chớ trước tác gì bây giờ cũng là không. Tôi nhớ lúc còn sống, Thâm Tâm đã ngồi trò chuyện với tôi lâu về cái nghĩa sống chết ở đời. Theo anh, sống ở chết về, bao nhiêu danh vọng, tiền tài đến lúc hai tay buông xuôi cũng là “không” cả, như trong thơ Vạn lý trường thành:
Nghìn thu đi vụt có nghìn tang,
Chia với thành xưa dấu vết tàn…
Ngoại khách ngậm ngùi tìm cố cảnh,
Mấy tầng đổ nát mấy tầng hoang.
Đất đá không bền để kỷ công,
Đến giờ thiêu hủy với non sông,
Họa ra còn sót mươi nền gạch,
Hát với Càn Khôn nắm bụi lòng!
Thâm Tâm đi với kháng chiến, tích cực dự phần chiến đấu cho tự do, độc lập và dân chủ của đất nước, nhưng có lẽ đến lúc bị bịnh tim ở Phú Thọ, gần đất xa trời, quan niệm về sống chết của anh vẫn không thay đổi.
Tôi nghe tin anh mất, buồn thì có buồn, nhưng không day dứt lắm, nhưng tôi chỉ băn khoăn không biết trong những năm cuối cùng của anh thì đời sống ra sao, vợ con thế nào. Ngoài ra, công danh, sự nghiệp - tôi cũng nghĩ như anh - chỉ là cái bọt, cái bèo trên đại dương, còn đấy và mất đấy:
Thở phù hơi rượu đua tranh,
Quăng bay chén khói tan thành trời mưa.
Dặm dài bến đón bờ đưa,
Thuyền ai buồm lái giúp vừa cho nhau.
Kia kìa lũ trước dòng sau,
Trăm sông rồi cũng chung đầu đại dương.
Vẫn biết đời là thế, nhưng còn sống một phút, còn phải làm cho tròn bổn phận làm người, dù đói, dù khổ, dù đa bịnh: Thâm Tâm quả là một con người xứng đáng với bốn chữ “con nhà văn tự”, một người ốm yếu mà can đảm không hai.
“Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch
Ta ghét hoài câu nhất khứ hề…”.
Một công dân xứng đáng làm bổn phận xong thì nhắm mắt chết êm đềm, không ầm ĩ.
Sài Gòn, 15-3-1970
Văn Học số 103 (15-3-1970)
Nguồn: Vũ Bằng Toàn Tập. Tập 4. Triệu Xuân sưu tầm, biên soạn, giới thiệu. NXB Văn học, 2006.