Xem ti n gốc
(Dân Việt)
- Con sông trong "Tống biệt hành" của Thâm Tâm riêng ra một lối, như muốn vĩnh viễn cắt đôi số phận người đi và người tiễn.
Vì thế, điểm nhìn cảm xúc đã rọi chiếu bắt đầu từ người tiễn, lại không
muốn đưa qua sông, mà dùng dằng ly biệt người đi.
Đất Việt là nơi cư dân trồng lúa Việt đã ở ngàn
đời, với nét hoa văn hoá, văn minh lúa nước, cùng ba thông số: xứ nóng ẩm, xứ
sông nước, giao điểm văn hoá văn
minh thế giới. Sông nước, tất thành yếu tố tâm linh người Việt "kỳ
diệu". Mọi cử chỉ sống Việt: yêu đương, hôn phối, sinh tồn... đều mang dung
dáng sông nước.
Sông Bến Hải. Ảnh: Dương Minh Long |
Yêu đến ước gì
sông rộng một gang, bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi. Xuân Diệu ví: Mắt em là một dòng sông,
thuyền anh bơi lội trong dòng
mắt em. Xa quê Hà Nội, tôi nhớ sông Đáy bãi bờ biêng biếc, dọc triền sông Nhuệ
ngan ngát nương dâu. Và điếng lòng
nhớ chùm thơ lai láng hình tượng sông, chói chang vẻ đẹp thuần Việt:
"Tràng giang" của Huy Cận, "Tống biệt hành" của Thâm Tâm và
"Lỡ bước sang ngang" của Nguyễn Bính...
Từ thời điểm
dừng lại của cuộc dùng dằng ly biệt, bài thơ “Tống biệt hành” dường như tĩnh tại, không lưu
chuyển. Điểm nhìn thơ thành
âm tính, quay ngược về thẳng nội tâm, nghe sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Mắt soi trong mắt, thấu thị một bóng chiều ra màu dở dang không thắm không vàng
vọt, đến mức nội tâm bật sáng nghi vấn nữa: Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Con sông đang
hiện hữu dường như biến mất. Tâm trạng đau đớn, biết chắc người đi sẽ "một
đi không trở lại" đã làm mờ nhoè cả hình ảnh con sông lẫn con đò hiện
thực, lẽ ra phải rời bến sang sông để hoàn tất tiễn đưa, song, chỉ vì cử chỉ
"không đưa", mà bài thơ đã cấu tứ ngược với tên
“Tống biệt hành”, vốn mang nghĩa dương tính: "Tiễn một người bạn đi chiến
khu" (như bạn cũ của Thâm Tâm từng cho biết). Vì sự ngược chiều này mà bài thơ đã quyến
quyện được hai hơi thở trữ tình và chính luận - triết học, vốn không dễ có mẫu
số chung trong tác phẩm thơ trữ tình.
Nhất là khi nó được cấu trúc mạch cảm xúc trên tình huống biệt ly, (cũng là tên
ca khúc buồn não ruột của Dzoãn Mẫn), vốn thường là mảnh đất thuận cho "sầu riêng trổ bông"...
Nỗi buồn mang
vẻ vô thường kín đáo này được
xác tín trong cuộc biệt ly riêng đưa người ta chỉ đưa người ấy, với lý
do sâu kín chỉ hai người biết, hà
tất chia xẻ cùng ai. Người đưa lại ngược về nội tâm, lý giải người đi, bằng những câu thơ hàm nghĩa, toả
bóng dài rộng trong cõi âm vang của dồn nén tu từ. Người đi được gọi là "Ly khách! Ly khách!"
với thức mệnh lệnh đượm mùi "kiếm hiệp". (Có nhẽ Thâm Tâm muốn gợi
lại điển tích Kinh Kha, kiếm khách thời Chiến Quốc, tự nguyện nhận hành thích
bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng, khảng khái ngâm thơ tặng người tiễn mình, trước khi vượt sông: Gió đìu hiu hề/Nước sông Dịch lạnh ghê/Tráng sĩ ra đi chừ
không về).
Tuy nhiên, Thâm
Tâm chuyển ngay sang một đoạn thơ hoàn hảo tu từ thuần Việt về người đi, với tâm nguyện: Chí nhớn chưa về
bàn tay không/Thì đừng bao giờ nói trở lại/Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Vậy, người đi, với một niềm câm lặng, chỉ người tiễn tự sự triết học: Ta biết
người buồn chiều hôm trước... Ta lại biết người buồn sáng hôm nay. Biết, để sực
tỉnh thảng thốt, trở lại sự thực không thể dối lòng, dù rất sâu xa vẫn thoảng
nhẹ nghi vấn khắc khoải: Người đi? Ừ
nhỉ, người đi thực/Mẹ thà coi như chiếc lá bay/Chị thà coi như là hạt bụi/Em
thà coi như hơi rượu say…
Ta không khi
nào có thể nghĩ dòng chảy thơ
Việt hiện đại lại vắng thiếu con sông ly biệt đặc hiệu Thâm Tâm này.
PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét