Nguyên An
Bài đăng phổ biến
- Nguyễn Tuấn Khoa: Ngày trở về của Thâm Tâm:
- Cái lấy nỏ của vua An Dương - Thâm Tâm
- Ngày trở về của Thâm Tâm - Tản văn: Nguyễn Tuấn Khoa
- Ca khúc "Mầu máu Ti gôn", Nguyễn Tuấn Khoa trình bày
- Sâm nhung mấy chuyến lòng đau với tình - Thâm Tâm
- Cái sừng trên đầu sư tử - Thâm Tâm
- Tống biệt hành, Tố Loan trình bày
- Một chiều khơi gió - Thâm Tâm
- THUỐC MÊ - Truyện vừa của Thâm Tâm
- Huyền thoại TTKH và Hai sắc hoa Ti-gôn - Thụy Khuê, Đài RFI, Văn học Nghệ thuật
Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014
Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014
Cha tôi trong nỗi nhớ
Nguyễn Tuấn Khoa
Thực
ra tôi không được sống gần gũi với cha tôi nhiều, năm tôi sinh ra là năm Kháng
chiến toàn quốc. Tháng 11, một loạt sự kiện xáy ra, tôi sinh ra trong những
ngày cha tôi chuẩn bị lên đường kháng chiến, nên ông không ở nhà. Ngày
19-12-1946, gia đình tôi về Hải Dương quê nhà, được mấy ngày thì cả gia đình
sang Thái Bình. Trước đó, năm 1938, khi cha tôi 21 tuổi thì cả gia đình chuyển
lên Hà Nội.
Nhà thơ Liệt sĩ Thâm Tâm (1917-1950) |
Rồi
năm 1948, khi gia đình quay về Hải Dương thì cha tôi về thăm nhà, nhân chuyến
công tác về vùng địch hậu liên khu III. Bài thơ Chiều mưa đường số 5 ra đời trong những ngày đó. Những dòng thơ cồn
cào nhớ nhung vùng Việt Bắc xa xôi:
Chiều mưa ngàn mai nở
Hoa phới bay mùa xuân
Bếp sàn gây ngọn lửa
Chén trà ngát tình dân
Chiều mưa lùa các cửa
Ngày bộ đội hành quân
Mẹ già không nói nữa
Nước mắt nhìn rân rân
...
Chiều mưa giã gạo mau
Chầy tập đoàn thình thịch
Ơi núi thẳm rừng sâu
Trung đội cũ về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
...
Sau
này lớn lên tôi mới biết bài thơ đó. Lúc về thăm gia đình, cha tôi có mang theo
một cái máy ảnh (lúc này ông là Thư ký tòa soạn báo Vệ quốc quân), nên có chụp một vài kiểu. Đó là kiểu tôi ngồi với
ông nội, ảnh riêng tôi (năm ấy khoảng 2, 3 tuổi). Sau đó từ Việt Bắc cha tôi gửi
về. Bây giờ tôi vẫn còn giữ những bức ảnh ấy. Đó là lần duy nhất cha con tôi gặp
nhau. Năm sau 1949, gia đình tôi chạy tản cư vào Thanh Hóa, thỉnh thoảng có nhận
được thư của cha tôi. Thư nào ông cũng hỏi thăm cặn kẽ, chu đáo về tình hình
gia đình, các chị.
Ảnh Thâm Tâm chụp con trai Nguyễn Tuấn Khoa, 1948 |
Nguyễn Tuấn Khoa và ông nội |
Cuối
năm 1950, ở nhà có nghe tin qua một vài người quen biết, nói rằng cha tôi đã mất,
hình như báo chí trong vùng địch hậu cũng đăng tin đó. Tôi nhớ một lần, mẹ tôi
bị bệnh thương hàn, thấy các cô chú cứ xì xào nhỏ to chuyện gì đó, mà không cho
mẹ tôi biết, thì ra đó chính là tin bố tôi mất. Lớn lên một chút, tôi biết mấy
chú ở báo Vệ quốc quân có chuyển về cho gia đình tôi giấy báo tử, thư chia buồn
... Ở giấy báo tử, người ký tên là Hoàng Xuân Tùy. Sau này, khi tôi học ở ĐH
Bách Khoa thì ông là Hiệu trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy trường, rồi Thứ trưởng Bộ
Giáo dục.
Khi
cha tôi mất, tôi còn bé, tôi cứ hình dung cái chết của cha tôi. Lớn lên, gặp
nhà văn Vũ Cao, tôi mới biết được những phút cuối cùng ấy. Ông mất ở một nhà
sàn, gần biên giới, trước chiến dịch Biên giới.
Tôi
được mẹ tôi và các bác kể về cha tôi nhiều, nhất là khi tôi lớn lên. Tôi luôn
tưởng tượng ông là người sống cẩn thận, hơi nghiêm khắc, lạnh lùng, và có lẽ
pha một chút ngang tàng như các chú tôi. Vào năm 1940, gia đình ông tôi nghèo
túng, lại đông con, nên ông nội tôi làm đủ các nghề để sinh sống, khi đóng
sách, khi là ông giáo làng. Lên Hà Nội, gia đình tôi ở số 7 Đội Cung - tức phố
Thái Phiên bây giờ. Ngôi nhà gia đình ông tôi ở bây giờ được thay thế bằng ngôi
nhà 3 tầng đồ sộ. Cha tôi và mẹ tôi quen nhau ở đây trong những ngày này. Mẹ
tôi là công nhân của hãng dệt Phúc Lai
(một hãng dệt tư nhân ở Hà Nội), hãng này có nhiều cơ sở. Cơ sở bán hàng mẫu ở
phố Huế, mẹ tôi làm ở đây. Tôi nói đôi nét về gia đình mẹ tôi. Gia đình ông
ngoại tôi gốc ở Thanh Hóa, nhiều con gái. Mẹ tôi là con út, khi lớn lên các chị
gái đều lập gia đình, nên mẹ tôi cũng muốn đi làm sớm. Nhà ông ngoại tôi ở dốc
Tam Đa. Mẹ tôi có người chị học cùng với chị bố tôi ở Hải Dương, thấy mẹ tôi
bán hàng ở phố Huế liền giới thiệu về nhà ông nội tôi, để đi làm cho gần. Theo
mẹ tôi nói, bố tôi đi suốt ngày, mỗi khi về nhà thức rất khuya viết lách, đôi
khi vẽ tranh (để bán), bố tôi có khiếu hội họa. Bạn bè bố tôi rất đông, đôi khi
về uống rượu bàn chuyện thơ văn ào ạt một lúc rồi đi ngay. Những người quen
biết vời gia đình tôi nay còn sống như nhà văn Thanh Châu, ông Ngọc Giao… Hai
người bạn thân thiết và tâm đắc của cha tôi là nhà thơ Nguyễn Bính và nhà thơ -
nhà viết kịch Trần Huyền Trân. Hai ông này không ngày nào không đến nhà tôi.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn không cắt nghĩa vì sao các cụ lại thân nhau đến như
vậy, bởi cả ngoài đời và văn phong thật khác nhau.
Cha
tôi làm thơ nhiều, nhưng bài Tống biệt
hành được mọi người yêu thích hơn cả. Tôi biết bài thơ không phải do khi đi
học được dạy mà do bác tôi thường đọc và tôi nhớ. Lúc ấy tôi đâu có biết nó hay
hay không hay, mà vì giọng thơ lạ so với những bài thơ khác. Nó không phải nói
về nỗi buồn hay chia cách, mà lúc ấy làm sao tôi cảm nhận được, mà cái chính là
sự ngang tàng, chí quyết ra đi, coi tất cả sự ràng buộc của các mối quan hệ,
tình cảm như hạt bụi, chiếc lá… Năm 1961, trong Tuyển tập thơ Việt Nam
1930-1945 có in bài thơ. Lần đầu tiên, tôi đọc nó một cách chính thức và
đầy đủ.
Viếng mộ Nhà thơ Thâm Tâm ở Quảng Uyên, Cao Bằng |
Nhắc
đến chuyện thơ ca, tôi nhớ đến một kỷ niệm. Ngày tôi còn bé, bố tôi mất, gia
đình tôi được đón lên ATK (An toàn khu Thái Nguyên) ở. Sống cùng với các ông
Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, các ông ấy cứ hay hỏi và thử xem liệu tôi có
biết làm thơ hay không. Nhưng chẳng hiểu vì sao tôi lại theo con đường khoa học
tự nhiên, thỉnh thoảng có viết lách đôi chút cho riêng mình…
Ngoài
những bài thơ cha tôi sáng tác, có bài Hai
sắc hoa Tigôn cũng thường được mọi người nhắc tới với tên cha tôi. Cũng có
người xì xào đó là những câu thơ liên quan đến chuyện tình riêng tư của ông! Đã
có lần tôi hỏi ông chú tôi, ông chỉ cười rồi nói: “Đó là chuyện đã lâu rồi…”
Tôi hỏi mẹ tôi thì bà nói: “Bố mày làm văn chương chắc có nhiều bạn, cũng có
thể có nhiều mối tình…” Tôi không tìm hiểu sâu thêm chuyện này vì nghĩ nếu
trong đời có một chuyện tình như vậy, thì cũng là chuyện tình đẹp, dù có ngang
trái…
Đọc
những bài viết, hồi ức của các nhà văn, nhà thơ bạn cũ của cha tôi, tôi càng
thêm quý yêu Người. Tôi cũng rất quý trọng tình cảm của các nhà văn, nhà thơ
bạn bè của cha tôi. Tôi muốn có dịp nào đó tổ chức cuộc gặp gỡ có đông đủ bạn
bè, các nhà văn, nhà thơ để cảm ơn tấm lòng mọi người với cha tôi. Tôi cũng
mong có dịp gặp các anh các chị con nhà thơ Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, đấy
là dịp để các con thắp nén hương tưởng nhớ những người cha thân yêu của mình.
PHƯƠNG
THẢO ghi
Nguồn: Đặc
san Văn nghệ, số 3, năm 1992, trang 11
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)